Là con gái thứ
21 vua Lê Hiển Tông (1740-1786). Từ bé đã thông kinh sử, biết làm thơ văn. Năm
1786 về làm vợ Bắc Bình vương Nguyễn
Huệ, sau được phong Bắc Cung Hoàng hậu.
Năm Nhâm Tý
(1792) vua Quang Trung thăng hà, bà có tập Ai Tư Vãn bằng quốc âm để khóc
chồng. Bài dài 164 câu làm theo thể song thất lục bát kể công đức vua Quang
Trung và nỗi lòng đau thương khi nhà vua qua đời.
Từ cờ đỏ trỏ vời cõi Bắc
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương (1)
Xe duyên vâng mệnh phụ hoàng
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu qui (2)
Trăm ngàn dặm kể chi non nước
Chữ nghi gia mừng được phải duyên
Sang yêu muôn đội ơn trên
Rỡ ràng vẻ thúy nối chen tiếng cầm
Lượng che chở vụng lầm nào kể
Phận đinh ninh cặn kẻ mọi lời
Dù rằng non nước biến dời
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang
Triều đình còn dấu chưng thường
Tùng thu còn nấm mấy hàng xanh xanh…(3)
Đó là kể công
đức vua Quang Trung đối với bà và dòng dõi nhà Lê từ ngày bà về với nhà vua.
Sau đây là đôi nét tả nỗi lòng đau đớn lúc mơ tưởng đến người xưa:
Cuộc tụ tán bi hoan cấp mấy
Kể sum vầy mới mấy năm nay
Lênh đênh chút phận bèo mây
Duyên kia đã vậy thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu ngày tối
Biết cậy ai dập nỗi bi thương
Trông mong luống những mơ màng
Mơ hồ dường mộng bàng hoàng như say
Khi trận gió hoa lay thấp thoáng
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu
Vội vàng sửa áo lên chầu
Thương ôi quạnh quẻ trước lầu nhện giăng
Khi bóng trăng lá in lấp lánh
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước tới nơi
Thương ôi vắng vẻ một trời tuyết sa
Lời văn do chí
tình mà nên, do cảm xúc mà có cho nên có sức rung cảm lòng người lâu dài mạnh
mẽ. So với Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn Thị Điểm thì không êm đẹp bằng, song đối
với Tự Tình Vãn của bà Vương phi Nguyễn Thị Ngọc Vinh thì thấm đậm gấp bội.
Còn một bài văn
tế nữa tương truyền cũng của công chúa. Sự thật là của người trong triều đình
làm cho công chúa đứng tế vua Quang Trung trong lúc thành phục. Mặc dù lời văn
cũng rất thống thiết tả rõ nỗi đau xót của người có tang, song quyết là không
phải tự tay công chúa thảo, bởi trong lúc ruột gan tan nát trước cảnh biệt ly,
không còn tâm trí đâu để lo trau chuốt vần điệu cho du dương, sửa soạn câu biền
ngẫu cho cân đối. Bài Ai Tư Vãn không phải làm trong lúc vua Quang Trung mới
mất chưa chôn, mà phải đợi lúc vết thương lòng đã dịu bớt nỗi đau nhức. Đó là
kinh nghiệm bản thân của những người từng mượn văn chương thay tiếng khóc.
Trong Ai Tư Vãn
bà Ngọc Hân kể lại mối tình của bà với vua Quang Trung từ ngày đầu tiên cho đến
khi nhà vua lâm bệnh nặng, thuốc thang không khỏi phải thăng hà. Nỗi bi thương
thống khổ trước cái tang chồng được bà nói lên một cách chân thiết. Có lúc bà
muốn tự tử theo chồng nhưng nghĩ đến 2 con nhỏ, bà phải gượng sống trong nỗi
đoạn trường.
Sau khi vua
Quang Trung mất bà sống ở Phú Xuân ngót 7 năm trong thương nhớ:
Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau
Mấy lời tâm sự trước sau
Đôi vừng nhật ngyệt trên đầu chứng cho. (4)
Bà mất vào mùa
đông năm Kỷ Mùi (1799) Tuối vừa chẳn 30. Triều đình Tây Sơn truy tặng miếu hiệu
Như Ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu.
Phan Huy Ích
soạn 5 bài văn tế bằng quốc âm để tế bà:
- Một bài cho
vua Cảnh Thịnh đứng tế.
- Một bài cho mẹ
Vũ Hoàng hậu là bà Phù Ninh Từ Cung đứng
tế .
- Một bài cho
các công chúa con vua Quang Trung đứng tế.
- Một bài cho
các tôn thất nhà Lê đứng tế
- Một bài cho bà
con phía bà Từ Cung đứng tế (5)
Những bài văn tế
này làm sáng tỏ thêm mối tình thân thiết giữa công chúa Ngọc Hân và vua Quang
Trung. Lại cho thấy thêm rằng đối với công chúa, chẳng những chỉ có vua Quang
Trung yêu quí mà thôi, trong cung người người đều trọng vọng vì đức hạnh.
“Giọt ngân phái câu nên vẻ quí, duyên hảo cầu thêm
giúp mối tu tề. Khúc thư châu thổi sánh tiếng hòa, khuôn nội tắc đã gây nền
nhân nhượng (6)
“Hồ đỉnh ngậm ngùi cung nọ, những rắp chìm châu nát
ngọc vốn từng nguyền; Cung Khôn bận bịu gối nao, ép vì vun quén quế lan nên hãy
gượng (7)
(Trong bài vua
CT đứng tế)
Nẻo thuở doành Hoàng phố vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn
mười phân; Trải phen bến Vỵ đưa duyên, phiếm sắc xoang cầm vầy một thể (8)
Dầu gót ngọc vui miền Tịnh Độ, nỡ nào quên hai chồi
lan quế còn thơ. Dẫu xiêm nghê mến cảnh Thanh Đô, nỡ nào lảng một bóng tang du
hầu xế. (9)
Đọc mấy câu
trích dẫn chúng ta biết thêm rằng hai người con của bà Ngọc Hân là một gái một
trai và bà còn mẹ già sống bên cạnh.
Năm tháng Ngọc
Hân công chúa mất có ghi rõ trong Dụ Am Văn Tập của Pham Huy Ích. Tác giả lại
có ghi rõ “Văn tế Vũ Hoàng Hậu”. Thế mà một số nhà viết quốc sử và văn học sử
lại chép rằng “Ngọc Hân công chúa bị Gia Long bắt” kẻ thì thêm “”Nhà vua truyền
đem nạp vào hậu cung. Lê Văn Duyệt can không nên lấy vợ thừa của giặc, nhà vua
đáp: “Tất cả giang san thành quách này, cái gì chẳng phải mình lấy lại từ tay
giặc, cứ gì một người đàn bà”. Vào cung công chúa sinh thêm với Gia Long hai
hoàng tử là Hoàng Tín và Quảng Oai”; người lại viết “Thành Phú Xuân thất thủ,
công chúa cùng hai con giả dạng bình dân dắc nhau chạy vào Quảng Nam lánh nạn,
được ít lâu tung tích bại lộ, ba mẹ con bị bắt giải về Phú Xuân, bị triều
Nguyễn gia hình bằng lối “tam ban triều điển” (10).
Nhà Nguyễn diệt
nhà Tây Sơn năm Nhâm Tuất (1802) thành Phú Xuân bị Nguyễn Phúc Ánh chiếm năm
Tân Dậu (1801). Như thế Ngọc Hân công chúa đâu còn nữa mà bị bắt (11).
Còn về tác phẩm
của công chúa, ngoài bài Ai Tư Vãn không nghe truyền bài nào khác nữa.
___________________________________________________________________
(1) Tôn Phù: Đưa lên và đỏe lấy, tức là phò tá.
(2) Vu qui: con gái về nhà chồng
(3) Tùng thu: một giống liễu thường trồng nơi mồ mả.
Bốn câu đó ý nói “vì thương công chúa nên thương luôn họ hàng của vua Lê và giữ
gìn khói hương mồ mả cho tiền nhân.
(4) Đây là 4 câu cuối cùng của bài Ai Tư Vãn (Ai Tư
Vãn là bài ca than thở về nỗi thương nhớ xót xa)
(5) Do 5 bài này mà có người bảo rằng bài văn Ngọc Hân
đứng tế Quang Trung cũng do Phan Huy Ích soạn. Song không có gì làm bằng. Trong
Dụ Am Văn Tập không thấy chép. Thêm nữa giọng văn bài Ngọc Hân công chúa tế
Quang Trung khác hẳn giọng văn của 5 bài tế Ngọc Hân.
(6) Giọt ngân phái; Giọt nước sông Ngân chia nhánh,
tức dòng dõi cao sang từ trên trời chảy xuống: Dòng vua.
Tu tề: tu thân tề gia.
Khuc Thư Châu: Khúc quan thư rong Kinh Thi (quan quan
thư cưu, tại hà chi châu) tình tốt đẹp của lứa đôi
Nhân nhượng là nhường nhịn
(7) Hồ Đỉnh Nơi vua Quang Trung băng, mượn chỉ nơi vua
mất
Cung Khôn: chỗ con vua ở. Hai câu này ý nói. Vua chết
bà cũng toan chết theo, song nghĩ đến hai con nên phải sống gượng. Trong Ai Tư
Vãn có đoạn:
Buồn thay nhẽ xuân về hoa ở
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong
Quyết liều mòn vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại giữa dòng
nào e
Còn trứng nước thương vì đôi
chút
Chữ tình thâm chưa thoát được
đi
Xui nên nấn ná đôi khi
Hình tuy còn ở phách thì đã
theo…
Ca dao có câu
Chàng về thiếp một theo mây
Con thơ ở lại chốn nầy ai
nuôi?
Đều là những câu thơ bằng huyết lệ
(8) Doành Hoàng tức là dòng dõi Tam Hoàng, dòng dõi
vua Hoàng Đế.
(9) Bến Vỵ tức là sông Vỵ Hoàng ở trấn Sơn Nam (Nam
Định) nơi đưa Ngọc Hân về Phú Xuân cùng Nguyễn Huệ.
(10) Chồi lan: con gái. Chồi quế: con trai.
Tang du giống cây tượng trưng cảnh già. Đây chỉ bà Từ
Cung.
(11) Tam ban triều điển: Người bị tử hình nhưng vua
ban ơn được chết bằng cách tự tử với hoặc gươm, hoặc dây hoặc thuốc độc.