9. TRƯƠNG QUỲNH NHƯ



Con gái Kiến Xuân Hầu Trương Đăng Quỹ, em gái Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ, cựu thần nhà Lê. Người làng Thanh Nê thuộc xứ Sơn Nam (Nam Định). Sanh thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).
Sắc đẹp, trí sáng. Lúc bé mặc quần áo con trai đi học.

Nhà Tây Sơn thay nhà Lê, Kiến Xuyên Hầu lui về Thanh Nê, Thanh Xuyên Hầu vẫn giữ chức Hiệp trấn Lạng Sơn với ý đồ làm nội ứng cho nghĩa binh Cần vương đương ngấm ngầm lo việc khôi phục. Còn Quỳnh Như thì theo cha về quê hương.
Được ít lâu Thanh Xuyên Hầu bổng nhiên ngộ bệnh mà mất. Bạn đồng chí của Hầu là Phạm Thái đưa linh cửu Hầu về Thanh Nê.
Phạm Thái là một trang thanh niên tài hoa lỗi lạc. Kiến Xuyên Hầu quí mến, lưu lại dạy các cháu trong nhà.
Giai nhân tài tử gặp nhau. Trương Quỳnh Như và Phạm Thái trở thành đôi tri kỷ, thường lén lút xướng họa cùng nhau. Kiến Xuyên Hầu định bụng sẽ gả Quỳnh Như cho Phạm Thái nhưng bà vợ không chịu vì họ Phạm là bạch diện thư sinh. Phạm Thái phải ra đi, ra đi với hy vọng trở lại trong cảnh võng lọng biển cờ. Trương Quỳnh Như tặng biệt:

Sát đá lòng này có biết chăng
Xe duyên mong mượn gió cung Đằng
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín
Dặm liễu ai xui én cách chừng
Vàng ngọc ví không cùng một ước
Nước non thề đã có hai vầng
Ai sang cậy nhắn tri âm với
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.

Phạm Thái đi rồi bà mẹ ép gả Quỳnh Như cho một công tử quyền thế. Nàng uất ức thành bệnh mà chết.
Tuổi mới đôi mươi!
Phạm Thái hay tin, thương đau xé ruột! Bèn tìm đến mộ làm văn tế điếu.
Đồng chí chêt, tri kỷ chết, họ Phạm thất tình, chí khôi phục nhà Lê dần dần tiêu tán, hằng ngày tìm quên lãng trong làng say. Chàng có nhiều thơ khóc Quỳnh Như:

I
Xanh kia cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Nhớ đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu châm chén ngọc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai có thấu lòng ai?

II
Oanh ru bên trướng giấc hoa nồng
Chợt tỉnh hồn mai nhớ lại mong
Non nước mơ màng chừng chỉ lữ
Mây mưa phảng phất đỉnh Vu Phong
Quyên về viễn phố hoa rầu rĩ
Nhạn tếch Hành Dương nguyệt não nùng
Đàn tiếng ly loan tay ngại gảy
Lấy ai lần gỡ mối sầu xong!

Vân vân…
Trương Quỳnh Như chết để lại một tập thơ ghi chép mối tình giữa nàng và Phạm Thái.

VỊNH GIỜ TÝ
Giờ tý canh khuya thuở giáp canh
Vì ai thổn thức rộn tâm tình
Ngửa ngang đôi ngả ai là bạn
Trằn trọc đòi nao thấy những mình
Một tấm sắc son đà gắn bó
Mấy điều trăng gió cũng màng tênh
Thôi thôi dặn hãy làm thinh vậy
Mọi nỗi chung riêng hãy để dành.

VỊNH GIÓ SỬU
Đằng đẵng đêm dài khá trách đêm
Đìu hiu giờ sửu giấc nào êm
Tiếng hàn châm nện hơi sương lạnh
Trận hỏa thang hừng dạ sắt mềm
Eo óc giục người gà nội quạnh
Véo von gọi bạn dế bên thềm
Vắt tay lên trán nằm mong sáng
Thấy sáng mà sầu lại chất thêm

VỊNH GIÓ MÃO
Mão thì đến bữa tưởng là vui
Đến bữa mà sao những ngậm ngùi
Đũa gắp ngập ngừng không thấy miếng
Miệng ăn mặn nhạt chẳng ra mùi
Thức ngon vật lạ băn khoăn những
Cổ đắng lòng cay gắng gỏi ngồi
Nhiều ít bây giờ ai ép uổng
Cũng mong qua bữa tếch cho rồi.

Vịnh đủ 12 giờ, giờ nào cũng gởi gắm niềm nhớ thương người cách trở. Thỉnh thoảng cũng có đôi bài vịnh vật, vịnh cảnh:

SƠN ÂM CỔ TỰ
Thích nhàn từng trải thú sơn hà
Phong cảnh đây ru? Là gọi là
Doành chở bè từ vờn sắc ngọc
Đỉnh in trăng tuệ tỏ màu hoa
Véo von kệ bối câu chim gióng
Ríu rít đàn xuân khúc gió hòa
Dù chẳng phải tiên song chẳng tục
Mới hay rằng Phật cũng là ta.

Mối tình thì éo le mà văn chương không có gì đặc sắc. Có lẽ vì tuổi còn trẻ quá, tài năng chưa đến độ phát triển mạnh, tâm tư chưa được nung nấu, chưa lắng được thật sâu.