CUỘC ĐẠI CHIẾN Ở QUY NHƠN
GIỮA HAI NHÀ NGUYỄN
GIỮA HAI NHÀ NGUYỄN
Năm
Ất Mão (1975), sau khi
quân Trần Quang Diệu rút về Phú Xuân thì Nguyễn Phúc Ánh cũng rút quân về Gia
Định lo tích trữ thêm lương thực, chiêu mộ thêm binh sĩ, quyết chí diệt Tây
Sơn.
Tháng
3 năm Đinh Tỵ (1797), mùa gió nam bắt đầu, Nguyễn Phúc Ánh để Tôn Thất Hội ở
lại giữ Gia Định, cùng Hoàng tử Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Bị thủy
quân Quy Nhơn đánh lui, Nguyễn Phúc Ánh theo chiều gió ra đánh Quảng Nam.
Trấn
thủ Quảng Nam là Phạm Văn Thọ, người Bồng Sơn, đi coi việc lương ở ngoài. Thành
bị vây đánh. Người vợ là Lâm Thị Bạch, người An Nhơn, đóng cửa thành cố thủ.
Địch đánh hăng quá, phu nhân liệu không giữ lâu nổi, bèn cắt tay lấy máu viết
thư xin cứu viện với Tổng binh trấn Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc. Binh Quảng
Nghĩa ra cứu, quân Nguyễn Phúc Ánh phải lui. Phạm Văn Thọ trở về giữ thành.
Nguyễn Văn Lộc trở về giữ Quảng Nghĩa.
Nguyễn
Phúc Ánh đánh Quảng Nam ngót hai tháng, quân lương hết phải rút trở về Gia
Định.
Nguyễn
Phúc Ánh về Gia Định, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Xiêm La xin Vua Xiêm đem
quân theo đường Vạn Tường sang đánh lấy Thuận Hóa hoặc Nghệ An, một mặt sai Ngô
Nhân Tịnh sang sứ nhà Thanh để cầu phong làm Quốc vương thay Nguyễn Quang Toản.
Tháng
3 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh cử đại binh ra đánh Quy Nhơn.
Quy
Nhơn trước kia, quan văn cũng như võ tướng phần nhiều đều là người địa phương.
Tình nghĩa giữa quân và dân rất mặn nồng khăng khít. Từ ngày cháu cướp quyền
bác, đưa người Quy Nhơn đi phục vụ ở nơi khác và đưa người nơi khác vào cai trị
người Quy Nhơn, thì quân và dân trở thành dầu và nước. Kẻ có quyền không có đức
lại gặp được hôn quân, liền hùa gió bẻ bắp, nhân dân phải chịu nhiều nỗi cay
đắng, những mong có cuộc thay đổi. Do đó địa phương có câu:
Lạy trời cho chóng gió nồm
Cho thuyền chú Nguyễn thuận buồm
thẳng ra.
Vì
vậy khi Nguyễn Phúc Ánh ra Quy Nhơn thì nhân dân ngấm ngầm ủng hộ.
Nguyễn
Phúc Ánh vào cửa Thị Nại, tháng 4 năm Kỷ Mùi sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức
đem quân lên bộ đóng ở Hàm Long thuộc Tuy Phước, và Tống Viết Phước ra đóng ở
núi Cung Quăng thuộc Bồng Sơn .
Hàm
Long là một độc sơn không cao không lớn, nằm trong địa phận thôn Thuận Nghi.
Hình giống như đầu rồng, miệng há rộng. Con sông Hà Thanh chạy từ Nam ra Bắc,
qua khỏi núi thì quành xuống đông để ra đầm Thị Nại, tạo thành cánh tay ôm lấy
chân núi ở mặt bắc và mặt tây. Núi còn một tên nữa là Cần Úc sơn. Núi tuy thấp
bé, song có thế dụng binh.
Cung
Quăng ở phía đông bắc Bồng Sơn. Mặt bắc của núi thuộc về Đức Phổ, Quảng Nghĩa.
Thế núi trập trùng, cây cỏ sầm uất. Dính liền với núi Sa Lung ở phía tây và núi
Thạch Tân ở phía đông. Ba ngọn núi này hợp nhau thành một bức tường thành thiên
nhiên che chở cho thành Quy Nhơn ở mặt bắc.
Những
nơi hiểm yếu này cũng như các nơi khác trong vùng đất Quy Nhơn đều do Lê Chất
và một số người chán ghét Cảnh Thịnh chỉ dẫn cho Nguyễn Phúc Ánh.
Chiếm
cứ Hàm Long và Cung Quăng rồi, Võ Tánh và Tống Viết Phước lo việc bố phòng.
Tống lo chận binh cứu viện ở Phú Xuân. Võ chờ thủy binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo
đánh mặt trước thành Quy Nhơn, sẽ kéo quân đánh bọc hậu.
Võ
Đình Tú đi kinh lý Phú Yên được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ Quy Nhơn, vội
kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh.
Hai
bên kịch chiến suốt hai ngày đêm, Võ Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Đức phục binh
trên núi với cung tên và súng đạn. Võ Đình Tú bị mắc mưu giục quân đuổi theo.
Tên trên núi bắn xuống như mưa, chen vào những tiếng súng nổ. Quân Tây Sơn bị
trúng tên lớp chết lớp bỏ chạy. Đình Tú tả xung hữu đột, cây thiết côn gạt
phăng bao nhiều mũi tên bắn vun vút vào người và ngựa. Nhưng không thể tránh
khỏi đạn đồng. Bị thương nặng, máu chảy dầm mình, đuối sức ngã gục trên lưng
ngựa. Ngựa hí một tiếng dài, nhảy ra khỏi trận tuyến, chạy một mạch về Phú
Phong[1]. Đến
nhà thì ngựa ngã lăn ra chết. Võ Đình Tú cũng đã lạnh hết chân tay.
Đó
là vào cuối tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799).
Đầu
tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh kéo quân lên vây thành Quy Nhơn, trấn thủ Quy Nhơn lúc
bấy giờ là Lê Văn Thanh[2] đem
quân ra chống cự.
Ở
Hàm Long, Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức kéo binh đánh đồn Trấp Xá ở Quán Chẹt.
Tướng giữ đồn là Trương Tấn Túy chống cự không nổi, bỏ đồn chạy về Quy Nhơn.
Quân nhà Nguyễn kéo đánh tiếp đồn Tháp Thi Thiện tục gọi là tháp Bánh Ít. Tướng
giữ đồn là Lê Văn Thiệt bị trúng đạn chết trên bành voi. Quân sĩ đều tan rã.
Quân Võ Tánh thừa thắng kéo ra Ngạc Đầm tục gọi là Bàu Sấu ở thôn Thiết Trụ
thuộc An Nhơn.
Bàu
Sấu không rộng lắm nhưng rất sâu, nắng mấy cũng không cạn. Phía tây là thôn Đại
Bình, phía đông là thôn Thiết Tràng. Bốn mùa người ở phía tây, phía đông qua
lại với nhau phải đi đò. Bên mé bàu phía đông có một dãy núi đất chạy dài ra
phía bắc, tiếp nối với những gò đống, giống hình rồng uốn khúc, gọi là Kim
Đồng. Trên núi có bảy đồn lính đóng để canh giữ mặt sau thành Quy Nhơn.
Bảy
đồn này có thế núi và nước, lại rất kiên cố. Quân Võ Tánh trào lên lớp nào bị quân
trên đồn bắn chết lớp nấy, không sao hiểu nổi, đành phải đóng lại dưới chân
núi, phía tây bàu.
Nguyễn
Phúc Ánh đánh thành mấy ngày liền, nhưng không hạ nổi, Lê Văn Thành chống cự đã
đuối sức, phải đóng cửa thành cố thủ để đợi quân cứu viện Phú Xuân. Nguyễn Phúc
Ánh bao vây thành, và truyền Võ Tánh giữ vững mặt phía tây, Tống Viết Phước giữ
vững mặt phía bắc, đề phòng binh Phú Xuân.
Binh
Phú Xuân do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy, kéo vào đến Quảng Nghĩa thì
bị binh Tống Viết Phước chận lại, phải dừng lại Thạch Tân. Thừa lúc trời tối,
Võ Văn Dũng lén đem quân theo đường Chung Xá, mưu đánh úp quân Tống Viết Phước.
Chẳng ngờ khắp nơi đều có quân đóng giữ và canh phòng cẩn mật, binh Võ Văn Dũng
bị thua to. May nhờ Trần Quang Diệu cứu ứng kịp, Võ Văn Dũng mới thoát nạn.
Nhưng quân Trần Quang Diệu không sao đánh thủng quân Tống Viết Phước, nên không
cứu được thành Quy Nhơn.
Lê
Văn Thanh đợi không thấy viện binh mà trong thành lương thực lại hết, bất đắc
dĩ phải mở thành cùng Thượng thư Nguyễn Văn Phác, thiếu úy Trương Tấn Túy ra
hàng. Nguyễn Phúc Ánh vào thành Quy Nhơn, chém chết tướng tá Tây Sơn, và đổi
tên là thành Bình Định.
Nguyễn
Quang Huy ở Phú Yên nghe tin Quy Nhơn thất thủ, kinh hãi nói:
-
Quy Nhơn mất rồi, nếu ở Diên Khánh đánh ra ở ngoài đánh vào Phú Yên lưỡng đầu
thọ địch, không tài nào chống nổi.
Bèn
bỏ Phú Yên kéo quân ra cứu Quy Nhơn.
Nguyễn
Quang Huy đánh rất hăng. Một ngày đánh bại 25 viên tướng của Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh lấy làm lạ, lên thành đứng xem. Quang Huy trông thấy dùng cung
Thiết Thai[3] bắn
trúng cánh tay trái. Nguyễn Phúc Ánh té nhào bất tỉnh. Tướng sĩ đưa vào dinh
cứu chữa. Tỉnh dậy, sai rút hết quân vào thành tạm nghỉ.
Quang
Huy đóng quân trước thành.
Nguyễn
Văn Thành ở Diên Khánh được tin Phú Yên bỏ trống liền đem quân ra chiếm đóng,
rồi sẵn đường kéo thẳng ra Quy Nhơn.
Quân
Nguyễn Văn Thành và quân Nguyễn Quang Huy giao chiến. Nguyễn Phúc Ánh sai
Nguyễn Huỳnh Đức mở cửa thành kéo quân ra tiếp ứng. Quân Quang Huy bị đánh hai
mặt, hết sức chống đỡ nhưng quân nhà Nguyễn quá đông, giết lớp này lớp khác
tràn tới. Sức đuối dần, quân Quang Huy bị ta rã. Quang Huy một người một ngựa
chạy vào núi Dương An.
Núi
Dương An cũng gọi là Phước An, nằm phía nam thành Quy Nhơn trong vùng Vân Canh,
hình dáng kỳ đặc kiêu hùng, chu vi hơn trăm dặm, đỉnh cao chất ngất, lúc nào
cũng có mây vần. Cây cối rậm rạp, phần nhiều là danh mộc sống lâu trên trăm năm
và lớn từ một ôm trở lên. Sườn núi dốc và đá xanh chập chồng. Dù leo núi giỏi
đến đâu cũng khó leo thấu đỉnh.
Chung
quanh Dương An có nhiều núi cao nối liền nhau thành dãy Nam Sơn chạy dài từ dãy
Tây Sơn vùng An Khê xuống đến biển Thị Nại.
Địa
thế rất hùng hiểm.
Nguyễn
Quang Huy vào Dương An chiêu mộ hào kiệt chờ dịp phục thù.
Còn
Nguyễn Phúc Ánh bị vết tên quá nặng, phải đem tướng sĩ trở vào Gia Định, giao
thành Quy Nhơn vừa đổi tên Bình Định cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ.
Tống Viết Phước vẫn canh giữ Cung Quăng để phòng ngự mặt bắc.
TRẦN QUANG DIỆU CHIẾM BÌNH ĐỊNH,
NGUYỄN PHÚC ÁNH CHIẾM PHÚ XUÂN
Được
tin Quy Nhơn thất thủ, Cảnh Thịnh định thân chinh. Nhưng gặp tang Ngọc Hân, nên
tạm hoãn, truyền Nguyễn Văn Giáp vào giữ sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa và gọi
Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng ra giữ Quảng Nam (Kỷ mùi 1799).
Ngọc Hân Công Chúa vào Phú Xuân năm bính Ngọ
(1786) và được phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm Kỷ Dậu (1789). Năm Nhâm Tý (1792),
Vua Quang Trung băng, Hoàng Hậu có một bài văn Tế và một bài Vãn, lời tha thiết
não nùng.
Hoàng
Hậu sống cùng Vua Quang Trung được bảy năm (1786-1792), sanh hạ được hai con,
một trai một gái.
Vua
Cảnh Thịnh ban tên thụy là Như Ý Trang Thân Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu.
Phan
Huy Ích phụng soạn năm bài văn tế bằng chữ Nôm:
-
Một bài cho Vua Cảnh Thịnh đứng tế.
-
Một bài cho các công chúa con Bùi Thái Hậu đứng tế.
-
Một bài cho bà Phù Ninh Từ Cung, thân sinh Vũ Hoàng Hậu, đứng tế.
-
Một bài cho các tôn thất nhà Lê đứng tế.
-
Một bài cho bà con bên Ngoại Vũ Hoàng Hậu đứng tế.
Có
nhiều câu, nghe qua là biết ngay được người được tế. Như:
* Giọt ngân phái câu nên vẻ quý,
duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề.
Khóc thư châu thổi sánh tiếng hòa,
khuôn nội tắc đã gây nền nhân nhượng.
* Hồ Đỉnh ngậm ngùi cung nọ, đã sắp
chìm châu lấp ngọc bởi từng nguyền.
Cung Khôn bận bịu gối nao, ép vì vun
quế quến lan nên hãy gượng.
Trong
các bài công chúa đứng tế:
* Thuở doành Hoàng tô vẻ, trau vàng
chuốt ngọc vẹn mười phân.
* Trãi phen bến Vy đưa duyên, phiếm
sắc xoang cầm vầy một thể.
* Dù gót ngọc vui miền Tây Thổ, nỡ
nào quên hai chồi lan quế còn thơ.
* Dù xiêm nghê mến cảnh Thành Đô, nỡ
nào lãng một bóng tang du sắp xế.
Trong
các bài tôn thất nhà Lê:
Hẳn non
lam khí vượng đã tàn rồi
Nên vườn
Lãng hoa tươi mà vội thế[4]
Tang
lễ cử hành rất long trọng. Người người đều tỏ lòng thương tiếc.
Đương
lúc trong triều ngoài nước, biến cố xảy ra dồn dập, mà đình thần cứ lo khuynh
loát lẫn nhau, Vua không nghĩ đến nỗi mất còn của quốc gia, cứ lo ăn chơi và
nghe lời nịnh hót sát hại công thần, khiến mối nước ngày càng thêm rối rắm,
lòng người càng ngày càng thêm ly tán.
Bọn
Trần Viết Kiết, Hồ Công Diệu, Trần Văn Kỷ vốn ghét Trần Quang Diệu, nhân thành
Quy Nhơn thất thủ, bắt tội Diệu là đồn binh không chịu tiếp ứng, tâu cùng Cảnh
Thịnh, xin sai người đưa mật thư vào Quảng Nam báo Võ Văn Dũng bắt Diệu giết
đi. Dũng được thư, tự nghĩ:
-
Tội là tội của mình, Trần huynh đã có lòng tốt không cáo giác, sao nay mình lại
nỡ hại ân nhân. Thà đắc tội cùng Vua còn hơn phạm tội vong ân bội nghĩa.
Bèn
đưa thư cho Diệu xem.
Diệu
nổi giận:
-
Chúng ta đem hết lòng hết sức ra phò Vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì
chớ, còn nghe lời siểm nịnh hết phen này đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng
ta! Tình thế không thể để kéo dài mãi. Tôn huynh hãy ở lại đây ngừa giặc, tôi
về kinh.
Trần
Quang Diệu về đóng binh tại bờ phía nam sông Hương, Cảnh Thịnh cho ra vời, Diệu
không phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Nữ
tướng Bùi Thị Xuân là chị em thúc bá ruột với Bùi Thái Hậu. Võ nghệ đã tuyệt
luân lại còn cùng chồng là Trần Quang Diệu góp một phần lớn trong việc dựng
nghiệp cho nhà Tây Sơn. Nhưng vì là phận nữ lưu không được tham dự quốc sự,
trải ba triều Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bà chỉ lo việc bảo vệ hoàng
thành và nội cung với 5.000 nữ binh và 200 thớt voi do bà tập luyện[5]. Thỉnh thoảng bà theo chồng ra trận, như trận đánh Ai
Lao năm Quang Trung thứ hai (1785). Năm ấy vì quốc vương Ai Lao không nạp cống
lễ, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu đem một vạn quân đi vấn tội. Bà lãnh đi
tiên phong. Đến Vạn Tượng, chỉ xáp chiến một trận là hạ ngay được thành. Chiến
thắng này vang dội tới Gia Định. Nguyễn Phúc
Ánh rất sợ uy vợ chồng bà. Vua Quang Trung băng hà, bà thọ mệnh phò tá
ấu chúa. Nhưng Cảnh Thịnh bị bọn gian thần do Bùi Đắc Tuyên cấu kết, làm bức
thành giữa bà và nhà vua. Mãi đến lúc có
việc, Cảnh Thịnh mới nhớ đến bà.
Bùi
nữ tướng đến gặp chồng, vợ chồng bàn với nhau:
-
Mối họa trong triều chỉ do bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng
lập lại không đến nỗi khó.
Trần
Quang Diệu xin Vua bắt bọn gian thần trị tội.
Trần
Văn Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt
Công Diệu và Kiết đem nộp cho Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu vào triều làm lễ
cẩn, rồi lãnh đại binh trở vào Nam.
Tháng
giêng năm Canh Thân (1800) Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng Võ Văn Dũng
để vào Quy Nhơn. Nhưng tới Bình Đê cũng bị quân Tống Viết Phước cản lại. Diệu
bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp, và hợp sức với trấn thủ
Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc, tìm mưu phá đường vào Quy Nhơn.
Nguyễn
Văn Lộc biết rõ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, đề nghị chia quân
là ba đạo: một đạo đi ngõ đèo Bến Đá, một đạo theo đường hẻm phía tây núi Sa
Lung, một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng. Ba đạo đồng một lượt nổi
trống chiêng và la ó, làm cho địch khiếp sợ, hoang mang không biết ngả nào mà
chống đỡ. Rồi ba mặt sáp lại đánh địch tất phải thua.
Trần
Quang Diệu y kế qua khỏi đèo Bến Đá, thẳng vào thành Quy Nhơn.
Võ
Tánh đem quân ra đánh. Nhưng đánh không lại, kéo quân vào thành cố thủ. Trần
Quang Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm
thủy binh giữ cửa biển Thị Nại.
Quân
nhà Nguyễn đã có tên lại có đạn, ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể
đến gần chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy chung quanh thành vây
khốn. Còn Võ Văn Dũng thì đem chiến thuyền Định Quốc và trăm dư chiến thuyển
nhỏ, ra đóng giặng ngang cửa biển. Hai pháo đài ở Gành Ráng và Phương Mai bấy
lâu bỏ hoang, được dùng sửa sang lại, và đặt súng đại bác để canh phòng.
Nguyễn
Phúc Ánh nghe tin Quy Nhơn bị khốn, tháng 3 năm Canh Thân (1800), cử đại binh
ra cứu viện.
Nguyễn Văn Thành cùng Lê Chất, Nguyễn Đình Bắc, Trương
Tấn Bửu đem bộ binh ra đánh Phú Yên rồi kéo đóng ở núi Thị Dã, đợi thủy binh[6].
Thủy
binh do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy, kéo ra đóng ở Cù Lao Xanh ngoài cửa Thị Nại[7]
Thủy
binh cũng như bộ binh đều bị quân Tây Sơn ngăn cản không liên lạc được với
nhau, mà cũng không tiến được. Đành phải án binh bất động.
Võ
Tánh đóng chặt cửa thành chờ viện binh.
Trần
Quang Diệu cũng vây chặt chờ trong thành hết lương thực.
Lúc
bấy giờ Điều quân Thượng đạo là Lưu Phúc Tường liên kết với người Vạn Tượng,
Trấn Ninh công nhiễu các trấn Thanh Hóa, Nghệ An. Các thổ dân đều dấy binh sách
ứng. Tín đồ Thiên Chúa giáo do các nhà truyền giáo Pháp cổ động, cũng nổi lên
đánh phá lung tung.
Ngày
13 tháng 4 năm ấy, lúc giờ Thìn, bỗng hiện ba mặt trời giữa không, chà xát lẫn
nhau. Qua giờ thân ngày sau, biến đi một mặt, còn hai mặt cũng cứ chà xát với
nhau cho đến tối. Nước sông hồ cạn dần.
Đến
tháng 10, núi Lôi Sơn bỗng lở. Suốt năm không một giọt mưa. Mùa mất, dân đói.
Dân tình cực kỳ khốn khổ.
Liệu
không cứu được Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh cho rút quân thủy bộ về gia định vào
tháng 11 năm Canh Thân (1800) để củng cố lực lượng, rồi tháng giêng năm sau,
tức năm Tân Dậu (1801), trở ra đánh mạnh.
Theo
kế hoạch của Lê Chất, Nguyễn Phúc Ánh chia quân đánh gọng kềm:
-
Nguyễn Văn Thành, Tống Viết Phước, Trương Tấn Bửu đem bộ binh từ Phú Yên theo
đường núi Dương An, An Tượng đánh ra.
-
Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem thuyền nhỏ vượt ra phía bắc Thị Nại, vào
cửa Cách Thử lẻn vào đầm Thị Nại, dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn[8].
-
Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại, khi thấy lửa cháy thì kéo chiến
thuyền đánh ụp vào. Bộ binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo vào trước. Đến Dương An, bị
binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cầm cự
cùng quân Nguyễn Quang Huy, Trương Tấn Bửu kéo lên ngả An Tượng[9] . Ở
đây Nguyễn Quang Huy đã bố trí sẵn mấy đội binh người Thượng. Quân Trương Tấn
Bửu bị người Thượng núp ở trong bụi rậm bắn ra, lớp bị chết lớp chạy tán loạn,
Bửu phải trở lui. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cũng không sao qua nổi
Dương An, phải cùng Trương Tấn Bửu rút vào Phú Yên đóng giữ.
Ở
Thị Nại, Võ Văn Dũng canh phòng nghiêm ngặt. Súng đại bác đã sẵn sàng tiêu diệt
địch. Nhưng đang đêm, thình lình thấy thủy trại cháy vội cho quân đi chữa lửa.
Võ Di Nguy trông thấy ánh lửa liền hô quân tiến vào. Súng trên hai pháo đài bắn
xuống đánh chìm hết đoàn thuyền tiên phong. Vĩ Di Nguy bị trúng đạn chết. Lê
Văn Duyệt đốc binh tiếp theo, liều chết vượt khỏi tầm súng. Lê Văn Duyệt dùng
hỏa công, lửa cháy rật rật và theo gió tạt vào thuyền Tây Sơn. Gió thổi càng
mạng, lửa cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả nghìn dặm mây. Và
tiếng súng nổ, tiếng quân la hét rầm trời dậy đất. Quân nhà Nguyễn bị chết vô
số. Thuyền Tây Sơn bị đốt không còn một chiếc con. Võ Văn Dũng đại bại, kéo tàn
quân lên hợp đồng cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.
Lấy
được Thị Nại nhưng không sao cứu nổi thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh đóng giữ
Thị Nại, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam và Quảng Nghĩa.
Lúc
bấy giờ Lê Sĩ Hoàng đã vào thế Nguyễn Văn lộc để Lộc vào Quy Nhơn tăng cường
cho Trần Quang Diệu. Còn Quảng Nam thì do Phạm Cần Chánh trấn thủ.
Binh
của Nguyễn Văn Chương bị binh của Phạm Cần Chánh và Lê Sĩ Hoàng đánh bại, phải
bỏ hết chiến thuyền, chạy bộ trốn vào Quy Nhơn.
Ở
Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh vẫn không giải cứu Võ Tánh được, bèn để Nguyễn Văn
Thành giữ cửa Thị Nại, Nguyễn Huỳnh Đức đồn tại đèo Cù Mông để chống cùng Trần
Quang Diệu và Võ Văn Dũng, còn mình thì kéo đại quân ra đánh Phú Xuân do biết
rằng lực lượng của Tây Sơn một phần lớn dồn ở Quy Nhơn, thế công thủ ở Phú Xuân
đều yếu ớt.
Nguyễn
Phúc Ánh đi rồi, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh đức họp sức nhau đánh Trần
Quang Diệu, dưới Thị Nại đánh lên, trong Cù Mông đánh ra. Nhưng mặt núi có
Nguyễn Quang Huy, mặt bể có Võ Văn Dũng, quân nhà Nguyễn bị đánh bật ra khỏi
đất Quy Nhơn.
Trần
Quang Diệu đốc quân đánh thành thêm kịch liệt.
Quân
mệt mỏi, tên đạn cạn, lương thực cạn, Võ Tánh liệu không trì thủ được nữa, bèn
viết thư ra cho Trần Quang Diệu yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô
tội. Đoạn mời Ngô Tùng Châu đến nói:
-
Thành thế nào cũng mất. Tôi là tướng võ phải chết theo thành, nhưng không muốn
cho địch thấy mặt. Còn ngài là quan văn, xin hãy cố mà bảo trọng.
Ngô
Tùng Châu đáp:
-
Võ có trung can, lẽ đâu văn lại không nghĩa khí? Tôi xin phép đi trước ngài.
Đoạn
về dinh, uống thuốc độc.
Võ
Tánh sai chất củi khô nơi lầu Bát Giác và rải thuốc súng chung quanh lầu. Nghe
tin Võ công sắp tuẫn tiết, người ái thiếp và người lão bộc xin được chết theo.
Công không cho. Hai người đợi Công lên lầu rồi, lấy dây tự trói mình vào cột
lầu chung với củi.
Công
thay áo mão, ung dung bước lên lầu, hướng về Bắc lạy năm lạy, rồi truyền châm
hỏa. Không ai nỡ ra tay. Công đòi hút thuốc. Một điếu thuốc ngon dâng lên. Công
hít một hơi dài rồi quăng điếu thuốc vào nơi có thuốc súng. Lửa bốc cháy. Không
mấy chốc cả trong lẫn ngoài. Lầu Bát Giác hóa thành một khối lửa cháy hừng hực!
Tiếng khóc vang thành! Quản binh Nguyễn Thận hay tin, hối hả chạy về, cảm
khích, nhảy vào lửa theo chủ tướng.
Rồi
cửa thành mở. Quân Trần Quang Diệu, đội ngũ chỉnh tề, lặng lẽ kéo vào. Tướng sĩ
trong thành, bỏ khí giới, đội nào đứng theo đội nấy, không sợ hãi cũng không
vênh vang. Quang Diệu ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần
của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ. Viên quản binh, người lão bộc và người ái
thiếp của Võ công cũng được an táng trong thành bên cạnh mồ Ngô Tùng Châu và Võ
Tánh.
Quang
cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng.
Đó
là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Trước
khi thành Quy Nhơn bị Trần Quang Diệu hạ thì thành Phú Xuân đã bị Nguyễn Phúc
Ánh hạ rồi. Nguyễn Phúc Ánh kéo thủy quân ra đến Phú Xuân vào cuối tháng 4 năm
Tân Dậu (1801). Quân nhà Nguyễn vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là Phò Mã Nguyễn
Văn Trị[10] đem
quân ra lập đồn tại Quy Sơn để chống cự. Tiền quân nhà Nguyễn tiến không được.
Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân đánh tập hậu. Lưỡng đầu thọ địch, Văn Trị
không chống nổi, bỏ đồn thoát thân. Thủy sư nhà Nguyễn vào cửa Thuận An rồi kéo
lên đánh thành Huế. Vua Cảnh Thịnh phải tự mình kéo quân ra cự địch. Tướng tài
không có ai. Nữ tướng Bùi Thị Xuân phải đem nữ binh và tượng binh theo hộ giá. Hai
bên đánh nhau từ sáng đến trưa thì quân Tây Sơn tan rã. Bùi nữ tướng vừa chỉ
huy nữ binh, vừa điều khiển tượng binh, khi thủ khi công tả xung hữu đột, mới
bảo vệ Vua Cảnh Thịnh được an toàn. Nhưng rồi liệu thế không trì thủ được nữa.
Nữ tướng bèn phò Vua chạy vào thành.
Trong
thành các đình thần, võ cũng như văn, đều bỏ trốn hết.
Không
trì hoãn được. Nữ tướng liền thúc quân mở cửa hậu, phò Vua, Thái Hậu và cung
quyến chạy ra Bắc. Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Chất đem kỵ binh đuổi theo. Nữ tướng
truyền nữ binh phò Ngự đi trước, còn mình thì quay trở lại điều khiển tượng
binh để chặn quân nhà Nguyễn.
Bầy
voi lúc ở trước thành Phú Xuân, vì lo bảo vệ Vua, nên chỉ giữ thế thủ, lúc này
mới được dịp chiến đấu nên ra uy. Cả bầy thét lên một tiếng rồi xông vào đoàn
ngựa đương chạy tới. Ngựa thất kinh, lồng lên và hí vang trời, rồi bỏ chạy tán
loạn. Quân Nguyễn không đợi đánh đã tan! Lê Chất vội quay ngựa chạy về Phú
Xuân. Bùi nữ tướng cũng thu voi chạy theo Ngự giá.
Nguyễn
Phúc Ánh vào thành Phú Xuân treo bảng chiêu an.
Đất
Thuận Hóa từ đây, ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) vào tay Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn
Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân vào cứu Quy Nhơn, sai Nguyễn
Văn Trương ra đóng ở Linh Giang, Phạm Văn Nhân xuống giữ Thuận An, Lưu Phúc
Tượng đi đường lên Vạn Tượng mua chuộc Vua Ai Lao và các bộ lạc ở dọc heo biên
giới Việt Lào.
Lê
Văn Duyệt kéo bộ binh qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam.
Lê
Chất đem thủy binh vào sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa.
Phạm
Cần Chánh trấn thủ Quảng Nam để cho quân Lê Văn Duyệt kéo thẳng vào Quảng Nghĩa
gặp quân Lê Chất, rồi cùng Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa đánh hai đầu. Quân
Nguyễn đông đến 3 vạn, nhưng không chống cự nổi sức mạnh của Phạm, Lê, Lê Chất
phải kéo quân chạy ra biển, Lê Văn Duyệt chạy vào Mộ Đức. Ở Mộ Đức, Lê Văn Duyệt
lại bị Lê Sĩ Hoàng đánh cho một trận nữa, phải chạy lên núi Thạch Bích tức Đá
Vách.
Thạch
Bích nằm phía tây nam phủ lỵ Quảng Nghĩa thuộc Nghĩa Hành. Núi cao trên nghìn
thước. Đó là ngọn núi cao nhất Quảng Nghĩa. Khí núi không hùng nhưng thế núi
rất hiểm. Vách đá dựng ngược, đường đi khúc khuỷu cheo leo. Trên núi có người
Thượng tục gọi là “Mọi Đá Vách” thường nổi dậy chống chánh quyền địa phương.
Lê
Văn Duyệt vốn người Quảng Nghĩa, biết rõ địa thế và tánh tình người Đá Vách,
nên có thể lên đó đồn trú lâu dài.
Còn
lê Chất chạy ra biển, đóng quân tại Cổ Lũy.
Cổ
Lũy là một cô thôn nằm trên cửa sông Trà Khúc.
Nơi
đây xưa kia, người Chiêm Thành đóng đồn ngăn giặc. Đó là một vùng cát trắng
mênh mông, phía trước mặt là nơi giao thủy của sông Trà và sông Vệ, bên kia
sông là thôn Phú Thọ, và phía đông là cửa Đại mênh mông.
Cũng
như Lê Văn Duyệt, Lê Chất đóng binh chờ dịp vào Quy Nhơn.
BẢN
ĐỒ THUẬN HÓA
[1] Phú Phong là quê hương của Võ Đình Tú - đã nói rõ trước
kia.
[2] Mới vừa đến thay Tư đồ Nghĩa được mấy tháng.
[3] Cung lớn có nòng sắt, có sức mạnh mới kéo nổi dây cung. Bắn
rất xa.
[4] Có ghi rõ trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích.
[5] Lúc ở Quy Nhơn bà chỉ có 2.000 nữ binh, ra Phú Xuân mới tổ
chức thêm. Số voi này là voi mới. Voi bà đã luyện tập ở Quy Nhơn, đều phân phát
cho các trấn. Bà chỉ đem ra Phú Xuân thớt voi đầu đàn bà thường cỡi.
[6] Núi Thị Dã thuộc về Tuy Phước, phía tây nam có núi Bà
Thanh, có đường đi đến suối Nam Thủy ở Phú Yên. Người Thượng dùng đường này để
qua lại Phú Yên và Quy Nhơn.
[7] Cù Lao Xanh, Chàm gọi là Poulo Gambia, nằm giữa hải phận
Phú Yên và Quy Nhơn.
[8] Lúc bấy giờ Cách Thử chưa bị lấp, đường nước thông thương
với đường Thị Nại ở phía nam thuộc về Tuy Phước.
[9] Núi Hương An ở phía đông, núi An Tượng ở phía tây , có
đường liên lạc xuyên qua các ngọn núi liền dây.
[10] Em rể Vua Cảnh Thịnh chông công chúa là con gái Bùi Thái
Hậu.