Phụ lục III: Bài viết của QUÁCH TẤN (1)

Đêm Thu Nghe Quạ Kêu


a   Nguồn Cảm Hứng

Thư Gởi Thi sĩ Bàng Bá Lân.

… Những thơ của tôi phần nhiều đều có một “lịch sử” và một “tâm sự”. Có bài đã nằm trong người tôi hàng chín, mười năm, rồi một khi gặp duyên lành liền phát hiện. Như bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu là một.
Nguồn cảm xúc bài thơ này nằm trong người tôi ngót mười hai năm trời.

Nguyên một buổi chiều cuối thu năm Đinh Mão (1927) tôi ở Trường Định xuống An Thái hốt thuốc cho bà thân tôi, lúc trở về thì trời đã tối. Theo con đường gần và dễ đi nhất, tôi qua bến đò An Thái sang An Vinh, rồi theo đường bên bờ sông Côn đi thẳng lên.
Đêm hôm ấy có trăng, nhưng không được sáng, vì trời nhiều sương. Tôi vừa đi vừa nghĩ vơ vẩn. Chợt đến một khúc đường tre che khuất cả bóng trăng và mo nang tre rụng đầy mặt đất.. Tôi dẫm phải những mo nang khô mới rụng, tiếng kêu sột soạt làm bầy quạ đang ngủ trên cây, giật mình vỗ cánh kêu vang dậy. Tiếng kêu thình lình giữa đêm vắng, nghe vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả mình tôi rởn ốc!
Từ ấy tiếng quạ ám ảnh tôi luôn.
Cách ba tháng sau bà thân tôi mất. Tiếng quạ vẫn cứ theo tôi nhưng giọng rùng rợn lạnh lùng đổi thành giọng não nùng. Qua một thời gian khá lâu, tiếng nghe thưa dần và nhạt dần, rồi lịm mất.

Mùa hè năm Kỷ Mão (1939) một đêm trăng tôi ngồi hóng mát cùng nhà tôi và một người bạn (nhà thơ Nguyễn Đình) trên bờ đầm Nha Trang ở trước mặt nhà. Lúc ấy dã khuya, nghe tiếng phở rao, nhà tôi gọi, không thấy trả lời, anh bạn gọi tiếp. Tiếng gọi bị núi Sinh Trung bên kia đầm dội lại, ngân dài trong đêm khuya... tiếng quạ năm xưa trong tâm hồn tôi vụt thức dậy rộn ràng… Rộn ràng nhưng dịu dàng chớ không rùng rợn cũng không não nùng như ngày trước.

Trở vô nhà, suốt đêm tôi không ngủ được. Tiếng quạ vang vọng bên tai, và gợi lên không biết bao nhiêu là ký ức. Phần thì nhớ mẹ già xưa, phần thì thương cảnh làng cũ, bồi hồi ảo não… Tôi nằm im lìm để cho nước mắt trào ra… Niềm nhớ thương vơi theo nước mắt và lòng tôi êm dịu dần dần.
Toan ngồi dậy ghi lại giòng cảm xúc, song thắp đèn sợ quấy giấc ngủ của vợ con, tôi đành nằm yên đợi sáng.
Sáng hôm sau nhằm ngày chúa nhật, được nghỉ, tôi toan lấy giấy bút để làm thơ thì khách đến ! Thế là mất hết buổi sáng. Chiều đến đóng kín cửa phòng, một mình ngồi lập ý.
Vừa nghĩ đến chữ Quạ thì liên tưởng ngay đến màu đen, đến chữ Ô. Chữ Ô liền nhớ đến bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích:
Chu Tước kiều biên dã thảo hoa
Ô y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tánh gia.

Những cảnh trong thơ hiện mơ màng ra trước mắt. Tôi đặt bút xuống bàn, ngồi nhắm mắt lại để cho lòng vui theo cảnh. Bầy yến dễ thương bỗng bay tản mác, rồi nhập nơi một lùm tre cao...
Tre che khuất bóng bầy chim én, nhưng lại đưa ra mấy tiếng quạ rộn ràng... liền đó như một cuốn phim, những cảnh bến đò An Thái biến thành bến Phong Kiều của Trương Kế với phong cảnh

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Và con sông Côn biến thành giòng sông Xích Bích, với con thuyền của Tô Đông Pha trôi chầm chậm dưới ánh trăng thu… Tôi tưởng tôi là họ Tô đương ngồi vuốt râu rậm bay phất phơ trước gió, và gõ mạn thuyền ngâm bài phú Xích Bích có nhắc đến họ Tào. Tôi trông thấy rõ dáng đắc ý của Tào Mạnh Đức đứng trên đoàn thuyền kết dài trên mặt sông, quay ngang ngọn giáo ngâm bài:

Nguyệt minh tinh hy
Ô thước nam phi
Nhiễu thọ tam táp
Vô chi khả y?

Rồi hết điểm này đến điểm khác, nối nhau đưa tôi vào sâu trong cõi mộng. Tôi ng say cho đến lúc người nhà lay dậy ăn cơm tối!
Cơm xong, tôi ngồi lại bàn giấy làm việc. Tôi nhất định ghi lại tất cả những gì đã đến cùng tôi. Nhưng không thể được, vì tôi không thích lối thơ trường thiên. Tôi bèn chọn những nét rung cảm đậm nhất, lọc những nét nên thơ nhất, dồn vào trong 8 câu:

Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc
Thắc thỏm chăng ai quả ấn vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình lang mang gợi tứ lang mang.

Tôi rất lấy làm thích và lấy nhan đề là “Đêm Nghe Quạ Kêu”.
Năm 1941, nhân các bạn ở tòa soạn tạp chí Bạn Đường mới xuất bản, gởi thư xin bài, tôi liền gởi đăng bài ấy.
Cách đó ít lâu, xem xét lại các thơ đã làm để in vào tập Mùa Cổ Điển, tôi nhận thấy bài trên câu luận không được sướng.

Câu trạng do những cảnh cũ gợi điển.
Câu luận bị thời cuộc lúc bấy giờ ảnh hưởng.
Lúc ấy quân Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính lập công danh, nhiều bà vợ bị chiếc bóng. Do đó mà mượn đến sông Ngân, mượn đến tích Trương Hạo lượm được một viên đá tròn do con sơn thước hóa ra, đem đập vỡ thì thấy một quả ấn vàng có mấy chữ “trung hiếu hầu ấn” sau làm tướng được phong đến tước hầu.
Chưa lấy làm sướng, nhưng sửa mãi chưa được.

Một đêm tôi ngồi tựa lan can, trầm ngâm ngẫm nghĩ... ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Những cánh cửa sổ mở hé được ánh trăng chiếu vào trông như xuy bạc và thềm giếng mới rửa loang loáng sắc hoàng kim. Trí tôi và mắt tôi dồn cả vào sắc vàng và sắc trắng của cảnh vật và của câu thơ... Chợt một vật gì rơi vào lòng giếng tạo thành một tiếng “chủm” lạnh lùng. Tôi cảm xúc ngay được câu thơ:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng

Sửa được câu này, tôi khoái hơn làm xong 8 câu trước. Nhưng ngâm đi ngâm lại, thấy câu kết chưa nói đúng nỗi lòng. Một lần nữa tôi phải lo sửa lại:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.

Như thế là ổn. Thích chí ngâm vang cả trời khuya.

Chế Lan Viên cũng cho câu sửa hơn hẳn nguyên tác, nhưng còn chê đầu bài không được nên thơ, mới thêm vào chữ thu thành “Đêm thu nghe quạ kêu”.
Đó là “tiểu sử” bài “Đêm thu nghe quạ kêu”, một bài thơ thai nghén một giáp tròn, thành hình trong nửa đêm. Rồi đến hai năm sau mớí sửa chữa lại. Khi làm cũng như khi sửa, tôi được hưởng nhiều hứng thú.
Vì thế mà lâu nay tôi thích bài ấy hơn các bài khác.

Hôm nay tôi lại hưởng thêm một thích thú nữa là tôi tìm thấy một sự ngẫu nhiên lạ lùng :
Bị tiếng quạ xúc động năm Đinh Mão.
Làm bài Đêm thu nghe quạ kêu năm Kỷ Mão
Viết lại sự tích bài thơ năm Quý Mão…
Trước anh đã có Bích Khê hỏi về trường hợp sáng tác bài thơ này. Tôi kể cho nghe, Bích Khê bảo tôi viết lại, nhưng từ bấy đến nay tính đã trên hai mươi năm rồi, tôi cứ định viết mà mãi vẫn không viết. Nay nếu không có anh hỏi nữa, thì e còn lâu lắm tôi mới viết! Âu cũng là thiện duyên.

Nha Trang xuân Quý Mão (1963)


b   Điển Tích

Nha Trang, tiết Thu Phân năm Tân Hợi (1971)

Kính gởi ông Ngư Phủ và quí bạn đọc Bán Nguyệt San VĂN ở Nam Đô.

Bài "Đêm thu nghe quạ kêu" với câu mở đầu: Từ Ô Y hạng rủ rê sang
là bài thơ được nói đến nhiều hơn tất cả mọi bài trong tập Mùa Cổ Điển của tôi, từ ba mươi năm nay (1941-1971).
Được nói đến nhiều, không phải vì văn chương mà vì điển Ô Y hạng. Tôi bị chỉ trích có, được bênh vực có.

Về bên chỉ trích, trước hết là nhà văn tiền bối, Phan Khôi tiên sinh, mới đây là nhà thơ hiện đại, Đông Hồ lão hữu.
Nguyên:
Năm 1940, tôi chuẩn bị cho ra tập Mùa Cổ Điển. Một người bạn trẻ của tôi là Nguyễn Đình, giáo sư trường Nha Trang, nhân về Quảng Nam thăm nhà, có trình cho Phan Tiên sinh bản thảo Mùa Cổ Điển. Thấy điển Ô Y hạng trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, tiên sinh bảo Nguyễn Đình về nói cùng tôi sửa lại vì điển ấy thuộc về chim én chớ không phải chim quạ. Nguyễn Đình về bảo tôi. Tôi cười đáp:
Không hề gì.

Khi Mùa Cổ Điển ra đời (1941) thấy Ô Y hạng vẫn còn nằm y trong Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, Phan tiên sinh nhân nói về "những chữ vô nghĩa trong thơ hiện đại” có nói đến chuyện gặp Nguyễn Đình và điển Ô Y hạng của tôi. Bài của tiên sinh đăng ở tờ Sông Hương do tiên sinh đứng chủ bút. Tôi nhớ đại khái lời của tiên sinh như thế này: "Đến như tập Mùa Cổ Điển của Quách Tấn là một tập thơ có nhiều bài thật hay, mà có lắm chữ vô nghĩa, như chữ Ô Y Hạng trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu. Ô Y là điển thuộc về chim én, không chút liên quan đến quạ. Tôi đã có nhắn cùng giáo sư Nguyễn Đình về nói cùng thi sĩ Quách Tấn sửa lại kẻo uổng một bài thơ hay. Nhưng không hiểu vì sao mà vẫn để y như cũ…”.
Vì tiên sinh có hẹn “sẽ gặp để nói chuyện” nên tôi không có thư hầu tiên sinh. Song rồi hết biến cố này đến biến cố khác, tôi không được may mắn hầu chuyện cùng tiên sinh.

Năm 1968, ông bạn Đông Hồ nhân viết bài "nhân điển Ô Y hạng, nghĩ về hại Tận Tín Thư” có nói đến sự dùng điển sai trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu khiến một số thí sinh  Đại Học Văn Khoa bị hỏng oan. Bài ấy đăng ở tập san Bách Khoa và in trong Úc Viên Thi Thoại.
Tôi có thư cho Đông Hồ hẹn sẽ gặp nhau để trình bày về điển Ô Y hạng tôi đã dùng cho lũ quạ của tôi. Nhưng lương hạc chưa thành, ông bạn đã cưỡi hạc!

Ngoài Phan Khôi tiên sinh và Đông Hồ thi sĩ, còn có Hoài Thanh tác giả Thi Nhân Việt Nam và Vũ Ngọc Phan tác giả Nhà Văn Hiện Đại.
Hoài Thanh chê là dùng điển sai, nhưng lại vớt “điều ấy tưởng chẳng quan hệ gì lắm”. Còn Vũ Ngọc Phan thì chê rằng “dụng điển cầu kỳ”.
Đó là những vị chê trên giấy trắng mực đen. Còn những lời chê miệng thì không kể xiết.

Cũng có lắm người bênh vực. Phần nhiều là khẩu thuyết. Duy nhà văn Nguyễn Hiến Lê cho biết ý kiến bằng thư (16/11/68) “Mấy chục năm trước hồi mới đọc Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, rồi mới đây đọc bài của Đông Hồ trong Bách Khoa, tôi đều nghĩ rằng hai vị đó nghiêm quá, chứ Ô Y hạng chỉ là một lối mượn chữ - chứ không phải dùng điển - giá viết văn xuôi, cho ba chữ đó vào một cặp ngoặc kép thì chẳng ai trách vào đâu cả; nhưng trong bài thơ, chẳng cần vậy (đặt vào ngoặc kép) thế thôi. Tôi chẳng biết gì về cách thức luật lệ thơ, nghĩ vậy mà không biết đúng không?”.

Năm 1946, tôi được nghe một vị phụ lão bênh vực cho điển Ô Y hạng, một cách hài hước rất lý thú. Việc xảy ra tại cựu kinh đô Huế. Nhân các bạn thích thơ tranh luận về điển ấy, vị phụ lão nói:
Tác giả bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu viết sai chính tả khiến khách yêu thơ phải hao sức hao hơi, Chữ Hạng kia là KỲ HẠN không có G . Quách Tấn  là người Bình Định đọc những chữ có G in như những chữ không G cho nên mới viết  Y HẠN ra Y HẠNG. Chớ câu ấy không dùng điển dùng tích chi cả. Nghĩa như thế này: "bọn quạ (từ ô) y kỳ hạn rủ nhau sang". Nghĩa thật rõ ràng mà văn cũng già dặn. Mắc gì lại bàn những chuện xa xôi cho mất công.
Ai nấy đều cười rộ (vị  phụ lão này tên Nguyễn Trọng Xuân một nhà Nho giỏi chữ Hán làm lệ mục phủ Bình Sơn. Câu giải thích được ông Phạm Đình Long đậu Phó bảng làm Tri phủ phủ Bình Sơn Quảng Ngãi nghe và cười: Cần gì phải giải thích như vậy. Câu này cốt nêu ra sắc đen của loài quạ mà thôi. Lấy cái sắc đen của loài én để liên tưởng đến quạ. Bầy chim sắc đen là nói đến quạ rồi”).

Một bài thơ, một quyển sách ra đời, mà được nhiều  người bàn tán, thì thật là cái thú, rất thú đối với tác giả. Cho nên ngót ba mươi năm nay, tôi lặng lẽ thụ hưởng.
Nay nhân bức thư ông Ngư Phủ do tòa soạn Văn chuyển đến, tôi xin nói rõ Ô Y Hạng và phép dùng điển mà tôi đã học được của cổ nhân.
Trong bức thư nói về nguyên nhân sáng tác bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu gởi cho Bàng Bá Lân tháng 8 năm 1963, tôi có nói qua về nguyên do khiến tôi dùng điển Ô Y Hạng. Bức thư ấy Bàng Bá Lân đã đăng trọn trong tập Văn Thi  Sĩ Hiện Đại, Kỷ Niệm, Nhận Định, quyển II (trang 68) và Trần Tấn Long đã trích đưa vào bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (quyển Trung trang 575). Hai bộ sách ấy đã được phổ biến sâu rộng. Nên ở đây chỉ nói đến việc xử dụng điển Ô Y Hạng vào Đêm Thu Nghe Quạ Kêu có sai phép làm thơ hay không.

Để giúp quí bạn ít thuộc điển tích dễ thấy rõ thị phi, trước hết tôi xin giải thích điển Ô Y và Ô Y Hạng.
Ô Y có nghĩa là áo đen
Đó là tên riêng của chim én.
Vì sao có nhiều giống chim lông đen, mà chỉ riêng chim én mang hiệu Ô Y?
Có tích mới dịch ra tuồng.
Truyền rằng: Có người đi lạc đến một quốc gia tên gọi là Ô Y quốc, được quốc vương đãi yến .Yến bãi, người ấy xin về. Quốc vương bảo vào nơi tiểu đình ngồi nhắm mắt lại. Giây lâu người ấy mở mắt ra thì thấy mình ngồi tại nhà, trên rường có đôi chim yến đương đậu rỉa lông, mới biết mình vừa mới  bị mộng du đến Yến Tử Quốc.
Ô Y Hạng là địa danh, có nghĩa là xóm áo đen.
Xóm ấy ở phủ Ứng Thiên, nay là huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô, nằm về phía đông nam chợ Nam Kinh. Đời Đông Tấn (317-420 ) có hai vị đại thần là Vương Đạo và Tạ An làm nhà ở trong xóm ấy. Họ Vương và họ Tạ nối nhau làm Tể tướng đến mấy đời, và con em trong nhà đều mặc áo đen. Do đó xóm mới có tên là Ô Y Hạng và con em hai nhà, đời gọi là Ô Y Lang. Vương Đạo và Tạ An lại cất chung một tòa lầu dưới rừng cây cổ thụ, để nghinh tân hội hữu. Hể cứ mỗi bận xuân sang thì chim én kéo nhau đến làm tổ chật cả mái lầu, nên tên lầu gọi là Lai Yến Đường.
Nhà Đông Tấn bị nhà Tống diệt (420). Họ Vương họ Tạ cũng bị điêu tàn theo.

Trung điệp đời Đường (713-823), nhà thơ Lưu Vũ Tích đi chơi Giang Nam. Nhân qua Ô Y Hạng trong lúc chiều tà, trông thấy nền cũ còn trơ mà họ Vương họ Tạ đã phiêu bạt tha phương, nhà thơ nghĩ cảm thương cho cố gia cổ tích bèn làm bài Ô Y Hạng:

Chu tước kiều biên dã thảo hoa
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tánh gia.

Nghĩa là:
Chu Tước cầu xưa lớp cỏ hoa
Ô Y xóm cũ bóng dương tà
Lạc loài bầy én lầu Vương Tạ
Cam chít chiu nương khắp mọi nhà.

Đó là theo sách xưa tích cũ thì Ô Y , Ô Y Hạng đều chỉ về chim én. Thế mà tôi lại đem dùng vào thơ quạ, thì bị chê là dùng điển sai, thật phải quá. Ngày xưa đi thi, dù gặp quan trường đại lượng mấy đi nữa cũng đánh hỏng. Song làm bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu là để nói lên những điều muốn nói, chớ đâu phải để cầu mong "bảng hổ đề danh” mà phải uốn mình theo phép làm thi cử nghiệp. Huống nữa dùng điển có nhiều cách:
Minh dụng,
Ám dụng,
Thái dụng,
Tá dụng,

* MINH DỤNG là một cách dụng điển rõ ràng chính xác. Ví dụ: Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, mà dẫn điển thất tịch độ hà, và mượn thi liệu Ô thước bắt cầu Ngân Giang như Đông Hồ cố nhân đã dùng để sửa dùm câu “Từ Ô Y Hạng rủ rê sang" bị nọc ra:
Từ bờ Ngân Hán rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Như VỊNH TRÂU GIÀ mà dùng Điền Đan lập trận hỏa ngưu, Nịnh Thích gõ sừng trâu ca bài “Hạo hạo bạch thủy”
Đuôi cùn biếng vẩy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca

* ÁM DỤNG là dùng điển một cách kín đáo, mới đọc qua dường như không có điển, nhưng xét kỹ thời có điển. Như bài Tự Thán, tương truyền là của Nguyễn Trãi:

Chiếc thuyền lơ lững bên sông
Biết đem tâm sự ngõ cùng ai hay
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao
Đã buồn vì trận mưa rào
Lại đau về nỗi ào ào gió đông
Mây trôi nước chảy xuôi dòng
Chiếc thuyền hờ hửng bên sông một mình.

Toàn bài không có một chữ khó. Dường như là văn chương đầu lưỡi. Nhưng hầu hết các câu đều mượn ý trong cổ thi. Như câu 1, 2, xuất phát nơi câu:

Thân tại giang hồ thượng
Tâm tồn ngụy khuyết trung.

Nghĩa là: Thân tuy ở trên sông trên hồ, nhưng lòng còn nơi Đế khuyết. Ý nói: Tuy không còn làm quan nữa nhưng không nỡ quên nợ nước ơn vua.

Chữ NON NƯỚC chữ CHIÊM BAO trong câu 4 cũng đều có xuất xứ:

Lương mộng chức vị thành
Sơn hà kinh kỷ biến.

Nghĩa là: Mộng lành dệt chưa nên, núi sông đã bao lần biến đổi. Đó là niềm thất vọng của kẻ sĩ yêu nước, vì cô thế phải đành chịu bất lực trước những biến cố của quốc gia. V.v...

Điển dùng thật kín đáo. Cổ nhân gọi cách dùng điển như thế là “ám trung dụng điển”, gọi tắc là ám dụng.

* THÁI DỤNG là cắt lấy những phần của điển tích hợp với ý mình muốn tả, việc mình muốn nói và bỏ những phần không liên hệ hoặc tương phản với nội dung câu thơ. Ví dụ: Trong bài BÁN CHỮ của Phan Sào Nam tiên sinh, cặp luận:

Sấy lửa cha Tần càng quý lắm
Chữa phong chú Tháo lại kỳ thêm.

Vế thứ hai là minh dụng, vì ý của tác giả muốn nói và điển dùng tương đồng: làm cho đối phương tỉnh ngộ. Đọc lên độc giả thấy rõ nghĩa câu thơ và dụng ý của tác giả, một khi đã biết rõ điển Trần Lâm làm bài hịch kể tội Tào Tháo, Tháo đương bị cảm phong đọc đến, toát mồ hôi liền khỏi bệnh.

Vế trên tác giả mượn điển Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò. Nhưng gạt bỏ tất cả chỉ lấy “chất lửa” một mặt để ám chỉ chính sách ngu dân và hà khắc của bọn cầm quyền, một mặt để nhắn cùng những hàng ái quốc rằng: Ngọn lửa tàn bạo của vua Tần kia sẽ vô cùng quý báu nếu biết xử dụng, nếu biết dùng để “sấy” cho ấm nhân tâm đã bị khôi lãnh, sĩ khí đã bị tiêu trầm, khiến những người lạnh nhạt trước tình trạng đau thương của nước nhà do bọn thực dân phong kiến gây nên, trở thành những người có tâm huyết có hào khí. Đó là Thái Dụng.

* TÁ DỤNG là mượn điển mà dùng, là dùng ké. Ví dụ điển “Tào Mạnh Đức hoành sáo phú thi” dùng trong bài phú Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha.

Năm Kiến An thứ 13 (208) để đánh Đông Ngô, Tào Tháo kết thuyền trên sông Dương Tử tại huyện Gia Ngư. Thuyền nối nhau san sát, khí thế rất mạnh, Tào Tháo đắc ý, cầm ngang ngọn giáo nhìn trăng ngâm thơ “Nguyệt minh tinh hi. Ô thước nam phi…” Nhưng rồi bị đối phương dùng hỏa công đốt thuyền. Tại một khoảnh núi rộng bị lửa đốt thành sắc đỏ, nên gọi là xích bích (vách đỏ).

Đời Tống thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) bị trích ở đất Hoàng Châu. Ở Hoàng Châu cũng có một dãy núi sắc đá cũng đỏ như ở dãy núi ở Gia Ngư và cũng gọi là xích bích. Năm Nhâm Tuất (1082) họ Tô đi chơi thuyền dưới chân núi ấy, cao hứng làm bài phú Xích Bích. Nhân Xích Bích này trùng tên với Xích Bích kia, họ Tô nhớ đến Tào Tháo đời Tam quốc, mới mượn đem vào văn chương.
Viên Tử Tài, tác giả Tùy Viên Thi Thoại, nói:

Thi nhân không nên câu nệ trong việc x sự (đồng nghĩa với dụng điển). Như Bạch Lạc Thiên trong Trường Hận Ca có câu: "Nga My sơn hạ thiểu nhân hành” (dưới núi Nga My ít người qua lại), thì lúc Đường Minh Hoàng hạnh Thục, nào có đi ngang qua núi Nga My. Trong bài thi Tiên Thành của họ Tạ, có câu: "Trừng giang tịnh như luyện” (sông Trừng giang lúc tạnh trông như lụa tri), thì Tiên Thành cách Trừng giang đến dư trăm dặm và nơi huyện lỵ Tiên Thành phía tả, phía hữu đều không có sông lớn. Trong bài phú Thượng Lâm của Tương Như có câu: "Bát xuyên phân lưu” (tám sông chia dòng) thì nơi Tràng An đâu thấy tám sông.
Đó là Viên Tử Tài nói về tá dụng.

Lời nói của Hoài Thanh và Nguyễn Hiến Lê cùng một ý với Viên Tử Tài.
Và điển Ô Y Hạng dùng vào Đêm Thu Nghe Quạ Kêu là dùng ké, tức là Tá dụng.

Trong việc dụng điển, từ xưa tới nay chỉ có cách Minh dụng là phổ thông. Cách Tá dụng trừ thơ Trung Hoa và thơ chữ Hán của Việt Nam, tôi chưa được thấy trong các bài thơ quốc âm lưu thế.
Các bậc tiền bối dạy làm thơ cũng không mấy khi đề cập đến cách Tá dụng. Chẳng những không đề cập đến mà còn khuyên chỉ nên dùng chánh điển mà thôi. Do đó sự dùng điển trong làng thơ quốc âm chịu ảnh hưởng lối thơ cử nghiệp, thường bị trói buộc vào khuôn khổ của trường qui.

Dùng điển nếu biết cách dùng, nếu dùng cho khéo thì rất có lợi:
            Câu văn gọn ngắn và bao hàm được nhiều ý nghĩa.
            Lời văn thêm đẹp và gây thêm nhiều ý vị thanh tao.
            Lời nói và ý tưởng trong câu văn được chứng minh.

Nhưng không nên lạm dụng. Chỉ nên dùng những khi không đừng được. Điển tích cũng như đồ nữ trang, dùng vừa phải, dùng cho đúng lúc đúng ch, thì mới tăng vẻ mỹ quan. Cổ nhân nói:
Người có nhiu điển mà không dùng thì chẳng khác người có quyền thế mà không cậy
Và để cảnh cáo những người ưa dùng điển, lại nói:
Tình sanh văn, cảm sinh văn. Những người ưa dùng điển là những người trong bụng vốn không tình mà muốn khoe khoang học thức. Cho nên văn làm ra chỉ là một mớ xác chữ không hồn.
Cổ nhân dạy cách dụng điển cũng nhiều, mà răn việc dùng điển cũng nhiều. Nhưng sợ bạn trẻ hiếu học không có duyên gặp được sách cũ để học, nên nhân nói về  điển Ô Y Hạng, tôi nói leo qua đôi nét đại cương.

Biển học vô cùng còn sức người hữu hạn. Những điều tôi đưa ra chỉ là một gáo nước. Lại e không tránh khỏi sơ sót lầm lỗi. Nga mong các bậc học rộng biết nhiều hoan hỉ chỉ giáo.

(Những Bức Thư Thơ)