Đêm Thu Nghe Quạ Kêu
a Nguồn Cảm Hứng
Thư Gởi Thi sĩ Bàng Bá Lân.
… Những thơ của tôi phần nhiều
đều có một “lịch sử” và một “tâm sự”. Có bài đã nằm trong người tôi hàng chín,
mười năm, rồi một khi gặp duyên lành liền phát hiện. Như bài Đêm Thu Nghe Quạ
Kêu là một.
Nguồn cảm xúc bài thơ này nằm
trong người tôi ngót mười hai năm trời.
Nguyên một buổi chiều cuối thu
năm Đinh Mão (1927) tôi ở Trường Định xuống An Thái hốt thuốc cho bà thân tôi,
lúc trở về thì trời đã tối. Theo con đường gần và dễ đi nhất, tôi qua bến đò An
Thái sang An Vinh, rồi theo đường bên bờ sông Côn đi thẳng lên.
Đêm hôm ấy có trăng, nhưng không
được sáng, vì trời nhiều sương. Tôi vừa đi vừa nghĩ vơ vẩn. Chợt đến một khúc
đường tre che khuất cả bóng trăng và mo nang tre rụng đầy mặt đất.. Tôi dẫm
phải những mo nang khô mới rụng, tiếng kêu sột soạt làm bầy quạ đang ngủ trên
cây, giật mình vỗ cánh kêu vang dậy. Tiếng kêu thình lình giữa đêm vắng, nghe
vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả mình tôi rởn ốc!
Từ ấy tiếng quạ ám ảnh tôi luôn.
Cách ba tháng sau bà thân tôi
mất. Tiếng quạ vẫn cứ theo tôi nhưng giọng rùng rợn lạnh lùng đổi thành giọng
não nùng. Qua một thời gian khá lâu, tiếng nghe thưa dần và nhạt dần, rồi lịm
mất.
Mùa hè năm Kỷ Mão (1939) một đêm
trăng tôi ngồi hóng mát cùng nhà tôi và một người bạn (nhà thơ Nguyễn Đình)
trên bờ đầm Nha Trang ở trước mặt nhà. Lúc ấy dã khuya, nghe tiếng phở rao, nhà
tôi gọi, không thấy trả lời, anh bạn gọi tiếp. Tiếng gọi bị núi Sinh Trung bên
kia đầm dội lại, ngân dài trong đêm khuya... tiếng quạ năm xưa trong tâm hồn
tôi vụt thức dậy rộn ràng… Rộn ràng nhưng dịu dàng chớ không rùng rợn cũng
không não nùng như ngày trước.
Trở vô nhà, suốt đêm tôi không ngủ
được. Tiếng quạ vang vọng bên tai, và gợi lên không biết bao nhiêu là ký ức.
Phần thì nhớ mẹ già xưa, phần thì thương cảnh làng cũ, bồi hồi ảo não… Tôi nằm
im lìm để cho nước mắt trào ra… Niềm nhớ thương vơi theo nước mắt và lòng tôi
êm dịu dần dần.
Toan ngồi dậy ghi lại giòng cảm
xúc, song thắp đèn sợ quấy giấc ngủ của vợ con, tôi đành nằm yên đợi sáng.
Sáng hôm sau nhằm ngày chúa nhật,
được nghỉ, tôi toan lấy giấy bút để làm thơ thì khách đến ! Thế là mất hết buổi
sáng. Chiều đến đóng kín cửa phòng, một mình ngồi lập ý.
Vừa nghĩ đến chữ Quạ thì liên
tưởng ngay đến màu đen, đến chữ Ô. Chữ Ô liền nhớ đến bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ
Tích:
Chu Tước kiều biên dã thảo hoa
Ô y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tánh gia.
Những cảnh trong thơ hiện mơ màng
ra trước mắt. Tôi đặt bút xuống bàn, ngồi nhắm mắt lại để cho lòng vui theo
cảnh. Bầy yến dễ thương bỗng bay tản mác, rồi nhập nơi một lùm tre cao...
Tre che khuất bóng bầy chim én, nhưng
lại đưa ra mấy tiếng quạ rộn ràng... liền đó như một cuốn phim, những cảnh bến
đò An Thái biến thành bến Phong Kiều của Trương Kế với phong cảnh
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Và
con sông Côn biến thành giòng sông Xích Bích, với con thuyền của Tô Đông Pha
trôi chầm chậm dưới ánh trăng thu… Tôi
tưởng tôi là họ Tô
đương ngồi vuốt râu rậm bay phất phơ trước gió, và gõ mạn thuyền ngâm bài phú
Xích Bích có nhắc đến họ Tào. Tôi trông thấy rõ dáng đắc ý của Tào Mạnh Đức đứng trên
đoàn thuyền kết dài trên mặt sông, quay ngang ngọn giáo ngâm bài:
Nguyệt minh tinh hy
Ô thước nam phi
Nhiễu thọ tam táp
Vô chi khả y?
Rồi
hết điểm này đến điểm khác, nối nhau đưa tôi vào sâu trong cõi mộng. Tôi ngủ say cho đến lúc người nhà lay dậy
ăn cơm tối!
Cơm
xong, tôi ngồi lại bàn giấy làm việc. Tôi nhất định ghi lại tất cả những gì đã
đến cùng tôi. Nhưng không thể được, vì tôi không thích lối thơ trường thiên.
Tôi bèn chọn những nét rung cảm đậm nhất, lọc những nét nên thơ nhất, dồn vào
trong 8 câu:
Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời
bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc
Thắc thỏm chăng ai quả ấn vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình lang mang gợi tứ lang mang.
Tôi
rất lấy làm thích và lấy nhan đề là “Đêm Nghe Quạ Kêu”.
Năm
1941, nhân các bạn ở tòa soạn tạp chí Bạn Đường mới xuất bản, gởi thư xin bài,
tôi liền gởi đăng bài ấy.
Cách
đó ít lâu, xem xét lại các thơ đã làm để in vào tập Mùa Cổ Điển, tôi nhận thấy
bài trên câu luận không được sướng.
Câu
trạng do những cảnh cũ gợi điển.
Câu
luận bị thời cuộc lúc bấy giờ ảnh hưởng.
Lúc
ấy quân Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính lập công danh, nhiều bà vợ bị
chiếc bóng. Do đó mà mượn đến sông Ngân, mượn đến tích Trương Hạo lượm được một
viên đá tròn do con sơn thước hóa ra, đem đập vỡ thì thấy một quả ấn vàng có mấy
chữ “trung hiếu hầu ấn” sau làm tướng được phong đến tước hầu.
Chưa
lấy làm sướng, nhưng sửa mãi chưa được.
Một
đêm tôi ngồi tựa lan can, trầm ngâm ngẫm nghĩ... ngoài trời trăng sáng vằng vặc.
Những cánh cửa sổ mở hé được ánh trăng chiếu vào trông như xuy bạc và thềm giếng
mới rửa loang loáng sắc hoàng kim. Trí tôi và mắt tôi dồn cả vào sắc vàng và sắc
trắng của cảnh vật và của câu thơ... Chợt một vật gì rơi vào lòng giếng
tạo thành một tiếng “chủm” lạnh lùng. Tôi cảm xúc ngay được câu thơ:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
Sửa
được câu này, tôi khoái hơn làm xong 8 câu trước. Nhưng ngâm đi ngâm lại, thấy
câu kết chưa nói đúng nỗi lòng. Một lần nữa tôi phải lo sửa lại:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang
mang.
Như
thế là ổn. Thích chí ngâm vang cả trời khuya.
Chế
Lan Viên cũng cho câu sửa hơn hẳn nguyên tác, nhưng còn chê đầu bài không được
nên thơ, mới thêm vào chữ thu thành “Đêm thu nghe quạ kêu”.
Đó
là “tiểu sử” bài “Đêm thu nghe quạ kêu”, một bài thơ thai nghén một giáp
tròn, thành hình trong nửa đêm. Rồi đến hai năm sau mớí sửa chữa lại. Khi làm
cũng như khi sửa, tôi được hưởng nhiều hứng thú.
Vì
thế mà lâu nay tôi thích bài ấy hơn các bài khác.
Hôm
nay tôi lại hưởng thêm một thích thú nữa là tôi tìm thấy một sự ngẫu nhiên lạ
lùng :
Bị
tiếng quạ xúc động năm Đinh Mão.
Làm
bài Đêm thu nghe quạ kêu năm Kỷ Mão
Viết
lại sự tích bài thơ năm Quý Mão…
Trước
anh đã có Bích Khê hỏi về trường hợp sáng tác bài thơ này. Tôi kể cho nghe,
Bích Khê bảo tôi viết lại, nhưng từ bấy đến nay tính đã trên hai mươi năm rồi,
tôi cứ định viết mà mãi vẫn không viết. Nay nếu không có anh hỏi nữa, thì e còn
lâu lắm tôi mới viết! Âu cũng là thiện duyên.
Nha Trang xuân Quý Mão (1963)
b Điển Tích
Nha Trang, tiết Thu Phân năm Tân
Hợi (1971)
Kính gởi ông Ngư Phủ và quí bạn
đọc Bán Nguyệt San VĂN ở Nam Đô.
Bài "Đêm thu nghe quạ kêu"
với câu mở đầu: Từ Ô Y hạng rủ rê sang
là bài thơ được nói đến nhiều hơn
tất cả mọi bài trong tập Mùa Cổ Điển của tôi, từ ba mươi năm nay (1941-1971).
Được nói đến nhiều, không phải vì
văn chương mà vì điển Ô Y hạng. Tôi bị chỉ trích có, được bênh vực có.
Về bên chỉ trích, trước hết là
nhà văn tiền bối, Phan Khôi tiên sinh, mới đây là nhà thơ hiện đại, Đông Hồ lão
hữu.
Nguyên:
Năm 1940, tôi chuẩn bị cho ra tập
Mùa Cổ Điển. Một người bạn trẻ của tôi là Nguyễn Đình, giáo sư trường Nha
Trang, nhân về Quảng Nam thăm nhà, có trình cho Phan Tiên sinh bản thảo Mùa Cổ
Điển. Thấy điển Ô Y hạng trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, tiên sinh bảo Nguyễn
Đình về nói cùng tôi sửa lại vì điển ấy thuộc về chim én chớ không phải chim
quạ. Nguyễn Đình về bảo tôi. Tôi cười đáp:
Không hề gì.
Khi Mùa Cổ Điển ra đời (1941)
thấy Ô Y hạng vẫn còn nằm y trong Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, Phan tiên sinh nhân nói
về "những chữ vô nghĩa trong thơ hiện đại” có nói đến chuyện gặp Nguyễn
Đình và điển Ô Y hạng của tôi. Bài của tiên sinh đăng ở tờ Sông Hương do tiên
sinh đứng chủ bút. Tôi nhớ đại khái lời của tiên sinh như thế này: "Đến
như tập Mùa Cổ Điển của Quách Tấn là một tập thơ có nhiều bài thật hay, mà có
lắm chữ vô nghĩa, như chữ Ô Y Hạng trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu. Ô Y là điển
thuộc về chim én, không chút liên quan đến quạ. Tôi đã có nhắn cùng giáo sư
Nguyễn Đình về nói cùng thi sĩ Quách Tấn sửa lại kẻo uổng một bài thơ hay.
Nhưng không hiểu vì sao mà vẫn để y như cũ…”.
Vì tiên sinh có hẹn “sẽ gặp để
nói chuyện” nên tôi không có thư hầu tiên sinh. Song rồi hết biến cố này đến
biến cố khác, tôi không được may mắn hầu chuyện cùng tiên sinh.
Năm 1968, ông bạn Đông Hồ nhân
viết bài "nhân điển Ô Y hạng, nghĩ về hại Tận Tín Thư” có nói đến sự dùng điển
sai trong bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu khiến một số thí sinh Đại Học Văn Khoa bị hỏng oan. Bài ấy đăng ở
tập san Bách Khoa và in trong Úc Viên Thi Thoại.
Tôi có thư cho Đông Hồ hẹn sẽ gặp
nhau để trình bày về điển Ô Y hạng tôi đã dùng cho lũ quạ của tôi. Nhưng lương
hạc chưa thành, ông bạn đã cưỡi hạc!
Ngoài Phan Khôi tiên sinh và Đông
Hồ thi sĩ, còn có Hoài Thanh tác giả Thi Nhân Việt Nam và Vũ Ngọc Phan tác giả
Nhà Văn Hiện Đại.
Hoài Thanh chê là dùng điển sai,
nhưng lại vớt “điều ấy tưởng chẳng quan hệ gì lắm”. Còn Vũ Ngọc Phan thì chê
rằng “dụng điển cầu kỳ”.
Đó là những vị chê trên giấy
trắng mực đen. Còn những lời chê miệng thì không kể xiết.
Cũng có lắm người bênh vực. Phần
nhiều là khẩu thuyết. Duy nhà văn Nguyễn Hiến Lê cho biết ý kiến bằng thư (16/11/68)
“Mấy chục năm trước hồi mới đọc Thi Nhân
Việt Nam của Hoài Thanh, rồi mới đây đọc bài của Đông Hồ trong Bách Khoa, tôi
đều nghĩ rằng hai vị đó nghiêm quá, chứ Ô Y hạng chỉ là một lối mượn chữ - chứ
không phải dùng điển - giá viết văn xuôi, cho ba chữ đó vào một cặp ngoặc kép
thì chẳng ai trách vào đâu cả; nhưng trong bài thơ, chẳng cần vậy (đặt vào
ngoặc kép) thế thôi. Tôi chẳng biết gì về cách thức luật lệ thơ, nghĩ vậy mà
không biết đúng không?”.
Năm 1946, tôi được nghe một vị
phụ lão bênh vực cho điển Ô Y hạng, một cách hài hước rất lý thú. Việc xảy ra
tại cựu kinh đô Huế. Nhân các bạn thích thơ tranh luận về điển ấy, vị phụ lão
nói:
Tác giả bài Đêm Thu
Nghe Quạ Kêu viết sai chính tả khiến khách yêu thơ phải hao sức hao hơi, Chữ
Hạng kia là KỲ HẠN không có G . Quách Tấn
là người Bình Định đọc những chữ có G in như những chữ không G cho nên
mới viết Y HẠN ra Y HẠNG. Chớ câu ấy
không dùng điển dùng tích chi cả. Nghĩa như thế này: "bọn quạ (từ ô) y kỳ
hạn rủ nhau sang". Nghĩa thật rõ ràng mà văn cũng già dặn. Mắc gì lại bàn
những chuện xa xôi cho mất công.
Ai nấy đều cười rộ
(vị phụ lão này tên Nguyễn Trọng Xuân
một nhà Nho giỏi chữ Hán làm lệ mục phủ Bình Sơn. Câu giải thích được ông Phạm Đình
Long đậu Phó bảng làm Tri phủ phủ Bình Sơn Quảng Ngãi nghe và cười: Cần gì phải
giải thích như vậy. Câu này cốt nêu ra sắc đen của loài quạ mà thôi. Lấy cái
sắc đen của loài én để liên tưởng đến quạ. Bầy chim sắc đen là nói đến quạ rồi”).
Một bài thơ, một quyển
sách ra đời, mà được nhiều người bàn
tán, thì thật là cái thú, rất thú đối với tác giả. Cho nên ngót ba mươi năm
nay, tôi lặng lẽ thụ hưởng.
Nay nhân bức thư ông
Ngư Phủ do tòa soạn Văn chuyển đến, tôi xin nói rõ Ô Y Hạng và phép dùng điển
mà tôi đã học được của cổ nhân.
Trong bức thư nói về
nguyên nhân sáng tác bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu gởi cho Bàng Bá Lân tháng 8 năm
1963, tôi có nói qua về nguyên do khiến tôi dùng điển Ô Y Hạng. Bức thư ấy Bàng
Bá Lân đã đăng trọn trong tập Văn Thi Sĩ
Hiện Đại, Kỷ Niệm, Nhận Định, quyển II (trang 68) và Trần Tấn Long đã trích đưa
vào bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (quyển Trung trang 575). Hai bộ sách ấy đã
được phổ biến sâu rộng. Nên ở đây chỉ nói đến việc xử dụng điển Ô Y Hạng vào
Đêm Thu Nghe Quạ Kêu có sai phép làm thơ hay không.
Để giúp quí bạn ít
thuộc điển tích dễ thấy rõ thị phi, trước hết tôi xin giải thích điển Ô Y và Ô
Y Hạng.
Ô Y có nghĩa là áo đen
Đó là tên riêng của chim én.
Vì sao có nhiều giống chim lông
đen, mà chỉ riêng chim én mang hiệu Ô Y?
Có tích mới dịch ra tuồng.
Truyền rằng: Có người đi lạc đến
một quốc gia tên gọi là Ô Y quốc, được quốc vương đãi yến .Yến bãi, người ấy
xin về. Quốc vương bảo vào nơi tiểu đình ngồi nhắm mắt lại. Giây lâu người ấy
mở mắt ra thì thấy mình ngồi tại nhà, trên rường có đôi chim yến đương đậu rỉa
lông, mới biết mình vừa mới bị mộng du
đến Yến Tử Quốc.
Ô Y Hạng là địa danh, có nghĩa là
xóm áo đen.
Xóm ấy ở phủ Ứng Thiên, nay là
huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô, nằm về phía đông nam chợ Nam Kinh. Đời Đông
Tấn (317-420 ) có hai vị đại thần là Vương Đạo và Tạ An làm nhà ở trong xóm ấy.
Họ Vương và họ Tạ nối nhau làm Tể tướng đến mấy đời, và con em trong nhà đều
mặc áo đen. Do đó xóm mới có tên là Ô Y Hạng và con em hai nhà, đời gọi là Ô Y
Lang. Vương Đạo và Tạ An lại cất chung một tòa lầu dưới rừng cây cổ thụ, để
nghinh tân hội hữu. Hể cứ mỗi bận xuân sang thì chim én kéo nhau đến làm tổ
chật cả mái lầu, nên tên lầu gọi là Lai Yến Đường.
Nhà Đông Tấn bị nhà Tống diệt
(420). Họ Vương họ Tạ cũng bị điêu tàn theo.
Trung điệp đời Đường (713-823),
nhà thơ Lưu Vũ Tích đi chơi Giang Nam. Nhân qua Ô Y Hạng trong lúc chiều tà,
trông thấy nền cũ còn trơ mà họ Vương họ Tạ đã phiêu bạt tha phương, nhà thơ
nghĩ cảm thương cho cố gia cổ tích bèn làm bài Ô Y Hạng:
Chu
tước kiều biên dã thảo hoa
Ô
Y hạng khẩu tịch dương tà
Cựu
thời Vương Tạ đường tiền yến
Phi
nhập tầm thường bách tánh gia.
Nghĩa là:
Chu
Tước cầu xưa lớp cỏ hoa
Ô
Y xóm cũ bóng dương tà
Lạc
loài bầy én lầu Vương Tạ
Cam
chít chiu nương khắp mọi nhà.
Đó là theo sách xưa tích cũ thì Ô
Y , Ô Y Hạng đều chỉ về chim én. Thế mà tôi lại đem dùng vào thơ quạ, thì bị
chê là dùng điển sai, thật phải quá. Ngày xưa đi thi, dù gặp quan trường đại
lượng mấy đi nữa cũng đánh hỏng. Song làm bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu là để nói
lên những điều muốn nói, chớ đâu phải để cầu mong "bảng hổ đề danh” mà
phải uốn mình theo phép làm thi cử nghiệp. Huống nữa dùng điển có nhiều cách:
Minh dụng,
Ám dụng,
Thái dụng,
Tá dụng,
* MINH DỤNG là một
cách dụng điển rõ ràng chính xác. Ví dụ: Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, mà dẫn điển thất
tịch độ hà, và mượn thi liệu Ô thước bắt cầu Ngân Giang như Đông Hồ cố nhân đã
dùng để sửa dùm câu “Từ Ô Y Hạng rủ rê sang" bị nọc ra:
Từ
bờ Ngân Hán rủ rê sang
Bóng
lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Như VỊNH TRÂU GIÀ mà dùng Điền
Đan lập trận hỏa ngưu, Nịnh Thích gõ sừng trâu ca bài “Hạo hạo bạch thủy”
Đuôi
cùn biếng vẩy Điền Đan hỏa
Tai
nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
* ÁM DỤNG là dùng điển một cách
kín đáo, mới đọc qua dường như không có điển, nhưng xét kỹ thời có điển. Như
bài Tự Thán, tương truyền là của Nguyễn Trãi:
Chiếc
thuyền lơ lững bên sông
Biết đem
tâm sự ngõ cùng ai hay
Chắc chi
thiên hạ đời nay
Mà đem
non nước làm rầy chiêm bao
Đã buồn
vì trận mưa rào
Lại đau
về nỗi ào ào gió đông
Mây trôi
nước chảy xuôi dòng
Chiếc
thuyền hờ hửng bên sông một mình.
Toàn bài không có một chữ khó.
Dường như là văn chương đầu lưỡi. Nhưng hầu hết các câu đều mượn ý trong cổ
thi. Như câu 1, 2, xuất phát nơi câu:
Thân tại
giang hồ thượng
Tâm tồn
ngụy khuyết trung.
Nghĩa là: Thân tuy ở trên sông
trên hồ, nhưng lòng còn nơi Đế khuyết. Ý nói: Tuy không còn làm quan nữa nhưng
không nỡ quên nợ nước ơn vua.
Chữ NON NƯỚC chữ CHIÊM BAO trong
câu 4 cũng đều có xuất xứ:
Lương
mộng chức vị thành
Sơn hà
kinh kỷ biến.
Nghĩa là: Mộng lành dệt chưa nên,
núi sông đã bao lần biến đổi. Đó là niềm thất vọng của kẻ sĩ yêu nước, vì cô
thế phải đành chịu bất lực trước những biến cố của quốc gia. V.v...
Điển dùng thật kín đáo. Cổ nhân
gọi cách dùng điển như thế là “ám trung dụng điển”, gọi tắc là ám dụng.
* THÁI DỤNG là cắt lấy những phần
của điển tích hợp với ý mình muốn tả, việc mình muốn nói và bỏ những phần không
liên hệ hoặc tương phản với nội dung câu thơ. Ví dụ: Trong bài BÁN CHỮ của Phan
Sào Nam
tiên sinh, cặp luận:
Sấy lửa
cha Tần càng quý lắm
Chữa
phong chú Tháo lại kỳ thêm.
Vế thứ hai là minh dụng, vì ý của
tác giả muốn nói và điển dùng tương đồng: làm cho đối phương tỉnh ngộ. Đọc lên
độc giả thấy rõ nghĩa câu thơ và dụng ý của tác giả, một khi đã biết rõ điển
Trần Lâm làm bài hịch kể tội Tào Tháo, Tháo đương bị cảm phong đọc đến, toát mồ
hôi liền khỏi bệnh.
Vế trên tác giả mượn điển Tần
Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò. Nhưng gạt bỏ tất cả chỉ lấy “chất lửa” một
mặt để ám chỉ chính sách ngu dân và hà khắc của bọn cầm quyền, một mặt để nhắn
cùng những hàng ái quốc rằng: Ngọn lửa tàn bạo của vua Tần kia sẽ vô cùng quý
báu nếu biết xử dụng, nếu biết dùng để “sấy” cho ấm nhân tâm đã bị khôi lãnh,
sĩ khí đã bị tiêu trầm, khiến những người lạnh nhạt trước tình trạng đau thương
của nước nhà do bọn thực dân phong kiến gây nên, trở thành những người có tâm
huyết có hào khí. Đó là Thái Dụng.
* TÁ DỤNG là mượn điển mà dùng,
là dùng ké. Ví dụ điển “Tào Mạnh Đức hoành sáo phú thi” dùng trong bài phú Tiền
Xích Bích của Tô Đông Pha.
Năm Kiến An thứ 13 (208) để đánh
Đông Ngô, Tào Tháo kết thuyền trên sông Dương Tử tại huyện Gia Ngư. Thuyền nối
nhau san sát, khí thế rất mạnh, Tào Tháo đắc ý, cầm ngang ngọn giáo nhìn trăng
ngâm thơ “Nguyệt minh tinh hi. Ô thước nam phi…” Nhưng rồi bị đối phương dùng
hỏa công đốt thuyền. Tại một khoảnh núi rộng bị lửa đốt thành sắc đỏ, nên gọi
là xích bích (vách đỏ).
Đời
Tống thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) bị trích ở đất Hoàng Châu. Ở Hoàng Châu
cũng có một dãy núi sắc đá cũng đỏ như ở dãy núi ở Gia Ngư và cũng gọi là xích
bích. Năm Nhâm Tuất (1082) họ Tô đi chơi thuyền dưới chân núi ấy, cao hứng làm
bài phú Xích Bích. Nhân Xích Bích này trùng tên với Xích Bích kia, họ Tô nhớ đến
Tào Tháo đời Tam quốc, mới mượn đem vào văn chương.
Viên
Tử Tài, tác giả Tùy Viên Thi Thoại, nói:
Thi nhân không nên câu nệ trong việc xử sự (đồng nghĩa với dụng điển). Như Bạch Lạc Thiên
trong Trường Hận Ca có câu: "Nga My sơn hạ
thiểu nhân hành” (dưới núi Nga My ít người qua lại), thì lúc Đường Minh Hoàng hạnh
Thục, nào có đi ngang qua núi Nga My. Trong
bài thi Tiên Thành của họ Tạ, có câu: "Trừng giang tịnh
như luyện” (sông Trừng giang lúc tạnh trông như lụa trải), thì Tiên Thành cách Trừng giang đến dư trăm dặm
và nơi huyện lỵ Tiên Thành phía tả, phía hữu đều không có sông lớn. Trong bài
phú Thượng Lâm của Tương Như có câu: "Bát
xuyên phân lưu” (tám sông chia dòng) thì nơi Tràng An đâu thấy tám sông.
Đó là Viên Tử Tài nói về tá dụng.
Lời nói của Hoài Thanh và Nguyễn Hiến Lê
cùng một ý với Viên Tử Tài.
Và điển Ô Y Hạng dùng vào Đêm Thu Nghe
Quạ Kêu là dùng ké, tức là Tá dụng.
Trong việc dụng điển, từ xưa tới nay chỉ
có cách Minh dụng là phổ thông. Cách Tá dụng trừ thơ Trung Hoa và thơ chữ Hán của
Việt Nam, tôi chưa được thấy trong các bài thơ quốc âm lưu thế.
Các
bậc tiền bối dạy làm thơ cũng không mấy khi đề cập đến cách Tá dụng. Chẳng những
không đề cập đến mà còn khuyên chỉ nên dùng chánh điển mà thôi. Do đó sự dùng
điển trong làng thơ quốc âm chịu ảnh hưởng lối thơ cử nghiệp, thường bị trói buộc
vào khuôn khổ của trường qui.
Dùng
điển nếu biết cách dùng, nếu dùng cho khéo thì rất có lợi:
Câu
văn gọn ngắn và bao hàm được nhiều ý nghĩa.
Lời
văn thêm đẹp và gây thêm nhiều ý vị thanh tao.
Lời
nói và ý tưởng trong câu văn được chứng minh.
Nhưng
không nên lạm dụng. Chỉ nên dùng những
khi không đừng được. Điển tích cũng như đồ nữ trang, dùng vừa phải, dùng cho
đúng lúc đúng chỗ, thì mới tăng vẻ
mỹ quan. Cổ nhân nói:
Người
có nhiều điển mà không dùng thì chẳng khác người có quyền
thế mà không cậy
Và
để cảnh cáo những người ưa dùng điển, lại nói:
Tình
sanh văn, cảm sinh văn. Những người ưa dùng điển là những người trong bụng vốn
không tình mà muốn khoe khoang học thức. Cho nên văn làm ra chỉ là một mớ xác
chữ không hồn.
Cổ
nhân dạy cách dụng điển cũng nhiều, mà răn việc dùng điển cũng nhiều. Nhưng
sợ bạn trẻ hiếu học không có duyên gặp được sách cũ để học, nên nhân nói về điển Ô Y Hạng, tôi nói leo qua đôi nét đại cương.
Biển
học vô cùng còn sức người hữu hạn. Những điều tôi đưa ra chỉ là một gáo nước. Lại
e không tránh khỏi sơ sót lầm lỗi. Ngửa mong các bậc học
rộng biết nhiều hoan hỉ chỉ giáo.
(Những Bức Thư Thơ)