Chương III
SÔNG NGÒI
Khánh
Hòa có nhiều sông. Song tất cả đều phát nguyên trong nội thổ, tại vùng núi phía
Tây, và chảy xuống biển phía đông, nên không có trường xuyên đại giang tuôn
ngàn vượt núi, cuốn mây khói cuồn cuộn theo dòng.
Có
hai con sông đáng kể, từ Bắc vào Nam, là con sông Dinh và con sông Cù. Đó là
hai “sợi tim” của phủ Bình Khang và phủ Diên Khánh ngày trước, hai “cuốn phim”
đã quay bao nhiêu cảnh “cồn dâu bãi biển” đã xảy ra trên đất Khánh Hòa.
A
SÔNG DINH
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là sông Vĩnh Phú
xưa gọi là Vĩnh An.
Đó
là con sông chảy ngang qua quận lỵ Ninh Hòa. Nên cũng thường gọi là sông Ninh
Hòa.
Vĩnh
An, Vĩnh Phú, Vĩnh Hòa là tên đất mượn đặt cho sông vì sông chạy qua địa phận.
Còn
tên sông Dinh do đâu mà ra?
Nguyên
từ khi đất Kaut Hara của Chiêm Thành về ta, cơ quan cai trị đều đóng ở Bình
Khang, cho đến đời nhà Nguyễn Trung hưng mới dời vào Diên Khánh. Dinh quan trấn
thủ đóng trong vùng Ninh Hòa hiện tại. Nhân sông chạy qua trước dinh, người địa
phương mới gọi là sông Dinh cho gọn.
Sông
Dinh có nhiều nguồn, nhưng chỉ ba ngọn chính:
-
Một từ hòn Mẫu Tử ở Khánh Dương chảy xuống, tục gọi là sông Cái.
-
Một từ hòn Đại Đa Đa quận Vạn Ninh chảy vào nhập cùng sông Cái tại vùng Xuân
Hòa, tục gọi sông Cây Sao.
-
Một từ biên giới phú Yên chảy qua vùng Đá Bàn ở Vạn Ninh, tục gọi sông Đá Bàn
chảy vào giáp sông Cái tại vùng Vĩnh Phú.
Từ
Vĩnh Phú trở xuống, sông mới gọi là sông Vĩnh Phú, sông Ninh Hòa hay sông Dinh.
Sông
Dinh chảy ra cửa Hà Liên, vũng Nha Phu.
Sông
Dinh không được sâu cũng không được rộng. Thuyền trọng tải chỉ có thể lên xuống
được nơi khúc sông gần biển, dưới Ninh Hòa. Còn từ Ninh Hòa trở lên, đường giao
thông chỉ thuận tiện về mùa mưa nước lớn.
Trên
dòng sông Dinh không có gì đặc sắc. Nhưng nước sông Dinh vẫn gây nguồn hứng cho
khách phong tao.
Trường
Xuyên có bài ca “tự lân hoàn tự tiếu” bắt nguồn từ ngọn sông Dinh.
Sông Dinh có ba ngọn nguồn,
Nhớ em, anh băng ngàn vượt suối.
Nhưng không biết đường đến thăm
em!
Ghé vô chợ Ninh Hòa
Mua một xâu nem,
Một chai rượu trắng,
Anh uống cho say mèm
Để quên nổi nhớ nhung.
Rượu không say, anh nghĩ lại ngại
ngùng:
Con gái mười hai bến nước,
Biết em thủy chung bến nào?
B
SÔNG CÙ
Tức
là sông Nha Trang. Đại Nam Nhất Thống Chí chép là sông Phú Lộc.
Sông
dài chừng 60 cây số, chảy qua hai quận Diên Khánh và Vĩnh Xương.
Sông
có nhiều nguồn. Nguồn thì chính Tây chảy xuống, như nguồn Gia Lai, nguồn sông
Máu [1].
Nguồn thì từ Tây Bắc chảy vô, như nguồn Gia Toui. Nguồn thì từ Tây Nam chảy ra
như nguồn Gia Lê, vân vân. Các nguồn hầu hết đều gặp nhau tại Thạch Trại, quận
Diên khánh. Hình giống như một cây quạt sè. Tại Thạch Trại nước các nguồn nhập
lại, chảy về Đông, thành con sông Cái, tức sông Cù, tức sông Nha Trang.
Sông
Cái khúc thượng lưu, nước chảy rất mạnh, vì lòng sông bị núi chèn ép ở hai bên,
đã hẹp lại dốc.
Từ
Thạch Trại, sông Cái chạy quanh co chừng vài chục cây số thì đến Giang Ché. Ở
đây sông Cái tiếp nhận nước sông Khế [2] từ vùng Du
Hoà, phía Tây Nam chảy ra.
Xuống
dưới Giang Ché chừng vài ba cây số thì tiếp nhánh thứ hai gọi là sông Giang từ
vùng núi tỉnh Darlac, phía Tây Bắc, chảy vào.
Đến
Sãi Me, cách khẩu sông Giang chừng ba bốn cây số, thì tiếp nhánh thứ ba từ vùng
núi Hòn Bà quận Cam Lâm, chảy ra, gọi là sông Cầu [3].
Từ
Giang Ché trở xuống, nhờ ba nhánh sông nầy mà sông Cái có nhiều nước, và lòng
sông mở rộng lần lần.
Và
từ khẩu sông Cầu xuống chừng bảy tám cây số, thì tiếp nhánh thứ tư từ vùng núi
Khánh Dương chảy vào. Nhánh nầy gọi là sông Chò, giao thủy tại Khánh Xuân, cuối
Đồng Trăng.
Bốn
nhánh sông sắp xếp với nhau một cách lý thú. Vào sông Cái như chân bước, cứ một
nhánh ở tả ngạn thì nhánh tiếp theo ở hữu ngạn, một nhánh ở hữu ngạn thì nhánh
tiếp theo ở tả ngạn. Thành thử tuy có nhiều sông con, sông Cái không “mang
tiếng thiên vị”, và những bạn lên nguồn tìm gỗ quý, nếu lắng tai “cao sơn lưu
thủy” tất nghe trong tiếng nước chảy, câu ngâm:
Ta nằm ở giữa cân trời đất
Khối ngọc không nghiêng một hướng
nào [4].
* * *
Đến
khẩu sông Chò là chấm dứt khúc thượng lưu của SÔNG Cái.
Nơi
đây có một cái vực rộng trên vài mẫu và sâu đến sáu sải. Nước xanh lặc lìa.
Trong vực có nhiều cua đinh. Lắm con to lớn, đầu bằng đầu người và vai rộng như
chiếc nong. Truyền rằng trong vực có hai con cá bạc má lớn bằng chiếc ghe bầu,
và một con cá kẽm to như một con trâu cầm bầy sung sức. Những con vật này mỗi khi
nổi lên thì sóng dậy cuồn cuộn.
Vịnh
vực Từ Mẫu, cụ tú Phan Duy Thuần quận Diên Khánh có câu:
Sông cái vực này sâu sáu sải,
Có khi cá nổi lớn vô song.
Và
Thi Nại Thị có câu:
Cá nằm đáy nước chờ phong hội,
Chẳng hóa rồng thiêng cũng hóa
bằng.
Từ
vực Từ Mẫu trở xuống, sông Cái hết bị núi non chèn ép, thong dong chảy giữa
đồng bằng. Hai bên bờ ruộng nương, nhà cửa, với bóng tre bóng dừa xanh mát, in
bóng trên dòng xanh. Và chảy quanh co chừng mười một mười hai cây số, đến thôn
Trường Lạc tại Hà Dừa, lại gặp con sông Suối Dầu, từ Cam Lâm chảy ra.
Sông
Suối Dầu phát nguyên tại Hòn Bà, quận Cam Lâm, và chảy xiên xiên ra hướng Đông
Bắc. Đến thôn Thủy Xương, xã Suối Hiệp thì chia làm hai phái. Một chảy xuống
Đông về Cửa Bé. Một chảy ra sông Cái để theo về Cửa Lớn Nha Trang.
Sông
Suối Dầu là phụ lưu cuối cùng của sông Cái.
Từ
khẩu sông Suối Dầu, sông Cái chạy qua sau lưng thành Diên Khánh để chảy xuống
Vĩnh Xương. Đến thôn Xuân Lạc thuộc Vĩnh Xương, sông Cái chia làm hai phái:
-
Một phái chảy xuống Đông Nam, qua đồng ruộng, qua bãi cát, men men theo chân
núi Đồng Bò chạy xuống thôn Trường Đông và rót vào cửa Tiểu Cù Huân, tức cửa
bé. Phái nầy bị lấp nơi phân lưu. Còn dòng nước thì nhiều nơi trở thành đồng
bằng, đôi nơi đọng lại thành bàu thành ao. Những khi mưa lụt, nước nhớ đường cũ
từ sông Cái tràn vào, vạch lại dòng sông xưa một cách rõ rệt.
-
Phái thứ hai chảy xiên xiên xuống hướng Đông Bắc. Đây là phái chính. Và hiện
thời là con sông Cái, vì phía Nam trên thực tế không còn hiện hữu một cách
thường xuyên.
Từ
Xuân Lạc chảy đến Ngọc Hội, sông lại chia làm 2 chi:
- Một chi chảy vào Phương Sài, gọi là
Ngư Trường (tên cổ nhân mượn bến Trường Cá tại Phường Củi mà đặt), rồi chảy
xuống Hà Ra. Nơi đây nước xoáy thành một đầm rộng chừng bảy mẫu, tên chữ là Cù
Đàm, tên thường là đầm Xương Huân. Nước sông một nửa chảy vào đầm, một nửa chảy
xuống Xóm Cồn để ra cửa Đại Cù Huân tức Cửa Lớn Nha Trang.
-
Chi thứ hai, rộng và sâu hơn, chảy xuống Xóm Bóng thuộc thôn Cù Lao, rồi cũng
chảy ra cửa Nha Trang như chi kia.
Hai
chi giáp nhau trước khi ra cửa, và cùng nhau ôm kín một cồn đất phù sa tục gọi
là Cồn Dê, có nhà cửa đông đúc và vườn dừa bát ngát xanh.
Từ
Ngọc Hội trở lên là Trung lưu sông Nha Trang. Từ Ngọc Hội trở xuống là Hạ lưu.
Trong
khúc hạ lưu có 3 cầu dài:
-
Cầu Hỏa xa ở Ngọc Hội.
-
Cầu Hà Ra ở trên đường Quốc Lộ số 1 phía Nam thành phố Nha Trang.
-
Cầu Xóm Bóng bắc ngang qua cửa sông Nha Trang, trên đường Quốc Lộ số 1.
Cửa
sông rộng nhưng không được sâu lắm. lại có nhiều đống đá cao lớn mọc ở giữa, có
phần bất tiện cho việc lưu thông. Những đá ấy gọi là Đá Chữ [5],
trông giống bầy trâu nước khổng lồ nổi lên mặt sóng nằm phơi lông.
Khách
làng thơ bảo với nhau rằng đó là những giọt mực “rảy bút” của Hóa Công làm rơi,
khi vừa vẽ xong con sông Nha Trang vậy.
*
Tên
Nha Trang, trên thực tế, chỉ dùng để gọi khúc sông từ Ngọc Hội chảy xuống biển.
Sông
qua thôn nào thì mang tên thôn ấy.
Nhưng
trong sách xưa, như Đại Nam Nhất Thống Chí, thường gọi là sông Phú Lộc, vì sông
chảy qua làng Phú Lộc, mà làng Phú Lộc trước kia là một làng có nhiều nhân vật
hữu danh và thịnh vượng nhất vùng Vĩnh Xương Diên Khánh. Sách Địa lý ngày nay
thường dùng tên Nha Trang mà gọi sông. Anh chị em bình dân thì gọi là sông Cái.
Còn khách hàng mặc thì gọi là Cù Giang, tức sông Cù.
Theo
các vị cố lão ở Khánh Hòa thì Nha Trang là tên kỳ cựu của con sông.
Nha
Trang do tiếng thổ âm của người Chiêm Thành mà đọc trại ra. Tiếng đó là Ea Tran
hay Yjatran. Ea hay Yja là nước là sông. Tran là lau lách. Gọi như vậy là vì
xưa kia, hai bên sông lau lách mọc đầy.
Câu
thơ được truyền tụng ở Khánh Hòa:
Lưỡng ngạn vi lô trường đáo hải
Tứ biên hoàng diệp dục vi thu
Nghĩa
là:
Trắng ngợp đôi bờ lau tới biển,
Vàng bay bốn phía lá gieo thu.
Có
phải là câu thơ vịnh sông Nha Trang?
Nha
Trang vốn tên con sông. Khi người Pháp đánh chiếm Khánh Hòa xong, mới lấy làm
tên cho thành phố hiện tại [6].
Nói
tóm lại, dùng tên Nha Trang làm tên chính thức để gọi con sông Cù, tưởng đích
đáng hơn tên nào hết. Tên cũ nay làm mới lại, đã hợp tình hợp lý, mà còn làm
cho người phương xa dễ phân biệt với những con sông khác, và khó lẫn lộn về vị
trí Bắc Nam.
* * *
Sông
Nha Trang không sâu, cũng không được rộng. Mùa mưa thì nước sông lai láng. Đứng
bờ bên nầy trông sang bờ bên kia thì “con ngựa trông nhỏ còn bằng con dê”. Đến
mùa nắng thì lòng sông, chỗ sâu nhất độ hai thước là cùng, còn thường thường
thì từ một thước rưỡi trở xuống. Bề rộng của lòng sông, kể cả bãi cát ở hai
bên, thì nơi rộng nhất không quá 500 thước và nơi hẹp nhất cũng từ 300 thước trở
xuống, 200 thước trở lên. Đó là nói về khúc sông từ vực Từ Mẫu đến biển. Còn
trên khúc thượng lưu thì hẹp hơn nhiều.
Vì
lòng sông cạn nên thuyền trọng tải chỉ lên xuống được dễ dàng trong mùa mưa.
Đó
là hiện trạng ngày nay.
Xưa
kia, sông Nha Trang vừa sâu vừa rộng. Cửa sông mở từ Xóm Bóng sang thấu Hà Ra.
Giữa sông không có nổng Cồn Dê. Từ Ngọc Hội nước chảy thẳng xuống biển chớ
không phân lưu như hiện nay. Bến Trường Cá ở Phường Củi ăn sâu vào tận chân núi
Trại Thủy chùa Hải Đức và núi Gành chùa Kim Sơn. Nước lênh láng như biển. Mùa
nắng cũng như mùa mưa, không lúc nào, không khúc nào có thể lội qua được.
Vì
vậy nên chiến thuyền của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn mới có thể lên xuống thành
Diên Khánh, và bến Trường Cá mới dùng làm nơi tranh hùng tranh bá của hai nhà
“đồng tánh bất đồng tông”.
Giữa
hai nhà có ba trận đánh lớn trên sông Nha Trang:
-
Năm Quý Sửu (1793), chiến thuyền của Nguyễn Ánh kéo lên Diên Khánh, bị quân Tây
Sơn chận đánh tại Trường Cá. Hai bên kịch chiến, máu chảy đỏ sông!
-
Năm Ất Mão (1795) tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu đem thủy binh và bộ binh vào
đánh Diên Khánh. Thủy binh của họ Trần bị Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá. Trận
nầy ác liệt gấp mấy mươi lần trận Quý Sửu. Quân Tây Sơn đã thiện thủy chiến,
lại đồng tâm quyết tử, nên quân nhà Nguyễn chống không nổi, bị tiêu diệt, xác
chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông. Võ Tánh thất kinh rút tàn quân
vào thành cố thủ.
Trần
Quang Diệu vây chặt thành.
Nguyễn
Ánh hay tin đem thủy binh ra cứu. Nhưng không lên nổi Diên Khánh, phải đóng
quân chận nơi cửa sông Nha Trang, và các nơi núi non hiểm yếu.
-
Sau đó Trần Quang Diệu có việc phải về Phú Xuân. Đi đường núi bất tiện phải mở
đường ở mặt biển. Thế là một trận đánh thứ ba xảy ra. Nhưng không kịch liệt
bằng hai trận trước. Bởi Nguyễn Ánh biết Trần Quang Diệu hùng mãnh không thể
thắng nổi, thêm nữa mục đích xuất quân chỉ để giải vây cho Võ Tánh, mà địch tự
nhiên rút lui thì còn chận lại làm chi. Do đó mà hai bên đều ít hao binh tổn
tướng.
Những
sự kiện lịch sử nầy tuy sử nhà Nguyễn không chép rõ. Nhưng đã khắc sâu vào bia
miệng người địa phương. Nên trải hơn 170 năm mưa nắng, rêu dẫu mờ mà nét vẫn
không mờ.
Vịnh
sông Nha Trang, Cổ Bàn Nhân có câu:
Trường Cá mây lồng tranh Hán Sở,
Cồn Dê cỏ phủ lớp tang thương.
Và
gần đây một du khách ở Quy Nhơn vào chơi
Nha Trang, nghe kể chuyện hai nhà Nguyễn tương tranh trên sông Cù, ngẫu
chiếm hai câu trào lộng ngậm đủ tình, cảnh, cổ, kim:
Trường Cá nước chìm hai họ
Nguyễn,
Sông Cù đất nổi một cồn Dê!
* * *
Phần
nhiều khách du quan viếng sông Nha Trang, chỉ viếng khúc hạ lưu và trung lưu,
chớ không mấy ai có gan lên đến thượng lưu để xem những thác nước là nơi chứa
đựng nhiều nhất kỳ thú của sông.
Sông
Nha Trang có rất nhiều thác.
Từ
khẩu sông Chò trở lên thì có:
-
Thác Đồng Trăng ở nơi giao thủy sông Chò và sông
Cái.
Cái.
-
Thác Ông Hào cách thác Đồng Trăng chừng một cây số.
-
Thác Đá Lửa.
-
Thác Nhét.
-
Thác Mòng.
-
Thác Võng.
Những
thác nầy đều nằm trong địa phận Đồng Trăng và cách nhau chỉ trên dưới một cây
số.
Và
những người lên nguồn, đến Bàn Giáp gần Thác Võng thì phải bày lễ vật cúng quỷ
thần rồi mới dám tiếp tục đi. Có lẽ nơi đây là ranh giới làng nước của “kẻ
khuất mặt”, và lễ cúng kia là lễ bàn giao.
Qua
khơi Thác Võng thì đến:
-
Thác Dằng Xay,
-
Thác Tham Dự,
-
Thác Ngựa,
-
Thác Hông Tượng,
-
Thác Trâu Đụng,
-
Thác Giang Ché,
-
Thác Trâu Á,
-
Thác Nai,
-
Thác Rùa,
-
Thác Hòm, vân vân...
Những
người lên nguồn làm súc gỗ, lên đến Thác Hòm mà thôi. Trên nguồn còn lắm thác
nhưng ít người lên đến nên không có tên.
Và
hầu hết những thác thượng dẫn không cao như những thác Camly, Gougah, Ankrouet,
Prenn ở Dalat. Thác nào cao lắm cũng trên dưới vài thước mà thôi. Nhưng nhiều
thác rất nguy hiểm. Cho nên ghe bè lên xuống phải hết sức cẩn thận và tay chèo
chống phải hết sức thạo nghề thì mới tránh khỏi tai nạn.
Có
những điểm đặc biệt đáng lưu ý, là những thác sau đây kể từ nguồn trở xuống:
THÁC HÒM
Ở
trên nguồn Gia Toui.
Nước
trên các khe các suối chảy dồn xuống một hồ rộng. Cuối hồ một đập đá thiên
nhiên nằm chận ngang dòng nước chảy. Do đó nước hồ luôn luôn lênh láng và sâu
không biết bao nhiêu.
Dưới
đập đá có một lỗ cống bồng bềnh. Nước hồ theo lỗ cống chảy qua bên kia đập đá
và tuôn xuống một vực sâu, tiếng vang ầm ầm.
Thợ
rừng làm súc gỗ xong kết bè thả xuống hồ rồi trèo qua đập đá sang bên kia đợi.
Bè gỗ chui vào lỗ cống thường bị nước đánh rã, và súc gỗ thường bị mắc kẹt
trong hang. Phần trôi ra ngoài mười phần chỉ còn độ ba bốn. Rất ít khi bè ra
được, nguyên.
Vì
nước thác chảy luồn qua cống đập đá bốn bên bịt bùng, nên gọi là thác Hòm.
THÁC RÙA
-
Gọi như thế vì giữa thác có nhiều đá hình tròn tròn trông giống mai rùa. Những
đá ấy lớp chìm lớp nổi. Bè đi vô ý bị va vào tất nguy.
THÁC NAI
-
Giữa thác có một hòn đá hình thù giống một con nai mới lú sừng.
Thác
Nai hiền như Nai. Nếu không có hình đá trông xinh xinh thì không mấy ai để ý.
Thác
Nai, thác Rùa, thác Hòm ở trên Thạch Trại, là những thác hữu danh thuộc về
nguồn.
Từ
Thạch Trại trở xuống, những thác được để ý nhất là:
THÁC
TRÂU Á
-
Trâu Á là trâu húc nhau. Gọi như vậy là vì nơi thác có hai tảng đá to lớn hình
giống hai con trâu giao đầu lại với nhau, như đương húc lộn. Hình trâu có đủ
đầu đủ sừng, một phần chìm dưới nước, một phần nổi lên trên. Bè phải len chính
giữa hai đầu trâu mà đi. Lắm khi bị vướng vào sừng xảy ra tai nạn. Thời Tiền
Chiến sừng trâu bị sét đánh gãy, nên sự qua lại ít nguy hiểm hơn xưa.
THÁC GIANG CHÉ
-
Thác ở gần khẩu sông Khê.
Ở
giữa thác có một tảng đá nổi cao, hình giống như một cái ché cổ. Ché bị sét
đánh sứt hết một phía miệng.
Thác
Giang Ché không nguy hiểm. Và ngoài cái Ché trời sanh rồi trời đánh, không có
chi đặc biệt.
THÁC TRÂU ĐỤNG
-
Cảnh tượng khác thác Trâu Á.
Trâu
ở thác Trâu Á đứng hai bên sông. Trâu ở thác trâu đụng lại nằm ở giữa dòng. Và
có ba con. Trâu mẹ nằm giữa, hai trâu nghé nằm hai bên.
Bè
ở trên theo sức nước trôi xuống, nếu lỡ tay sào, thì nhất định bị đụng vào đá,
không đụng vào tảng này cũng đụng vào tảng kia. Mà một khi đụng vào thì hoặc
chìm hoặc vỡ, chớ khó mà “bình yên”. Cho nên tay sào thật giỏi mới dám qua thác
Trâu Đụng.
THÁC HÔNG TƯỢNG
-
Gọi tắt là thác Hông.
Gọi
thế là vì nước thác xối thẳng vào hông núi rồi mới quay trở lại xuôi theo dòng
sông. Bè trôi xuống, nếu chống đỡ không khéo, bị tột vào hông núi, thì dội
ngược lại và chìm ngay.
Hông
núi vừa to vừa mốc như da voi, nên gọi là hông tượng.
THÁC NGỰA
-
Thường gọi là thác Ngựa lồng.
Thác
dài đến trên dưới ba trăm thước. Không dốc nhưng có nhiều đá mọc ngầm dưới
nước. Có ba tảng cao nhất, chỏm lên gần sát mặt nước. Nằm theo hàng dọc. Nước
chảy xuống bị sức cản, bắn bọt tung tóe. Trông dạng nước chảy qua ba tảng đá
ấy, lên cao rồi xuống thấp, giống như kiều ngựa. Cho nên ba tảng đá mang tên là
Kiều Nhất (tảng ở trên hết), Kiều Nhì (tảng ở giữa), Kiều Ba (tảng cuối). Sức
nước qua thác Ngựa rất mạnh. Dòng nước chảy cuồn cuộn trông hung hăng như ngựa
lồng. Do đó mà mệnh danh là thác Ngựa lồng [7].
THÁC THAM DỰ
Cũng
gọi là thác sông Cầu vì nằm nơi giao thủy sông Cầu và sông Cái.
Giữa
thác nổi lên một cồn cát. Nước chảy chung quanh cồn giống như hai tay ôm choàng
một thúng cát. Cánh phía Bắc cạn. Ghe bè đi bên cánh phía Nam. Thác không nguy
hiểm.
THÁC DẰNG XAY
Mệnh
danh như thế là vì thác chảy theo hình cánh chỏ, trông giống dằng xay xay lúa.
Nước chảy rất mạnh. Nơi nghẹo cánh chỏ có một cồn cát. Nước chảy xuống dội mạnh
vào nghẹo cánh chỏ bị dội trở lại, một phần theo dòng sông chảy xuôi, một phần
chạy vòng quanh cồn cát như kiều xay lúa. Đó là một điểm nữa làm cho thác lấy
tên là Dằng Xay chớ không lấy tên Cánh Chỏ hay Chữ Chi. Bè ghe khi xuống gần
đến khúc nghẹo dằng xay, thì các tay sào phải sẵn sàng giơ ra theo chiều hướng
thuận tiện để chống vào vách đá cho ghe bè theo đúng đường trôi xuôi. Nếu lỡ
tay thì thế nào cũng bị va vào vách đá. Mà một khi bị va thì không vỡ cũng
chìm, hoặc bị đẩy lọt vào phần nước bị dội và bị nước cuốn chạy vòng quanh cồn
cát, phải tốn nhiều công sức mới ra khỏi vòng xà quây.
THÁC VÕNG
Cảnh
tượng có phần kỳ quái.
Đá
chồng thành một đập thiên nhiên, từ bờ phía hữu chạy xiên xiên ra đến hai phần
ba sông. Nước đương xuống thác đã mạnh lại còn bị đập đá cản lại thành mạnh
thêm. Đã vậy tại chỗ nước chảy lại có một dây rừng giăng ngang qua từ bờ phía
tả đến đập đá như một cái võng đưa em. Dây ấy là một dây sống, lớn bằng bắp vế
và giăng sà sà trên mặt nước. Nước thác chảy đánh tung dây lên cao. Dây tung
lên rồi rớt xuống. Rớt xuống lại bị đánh tung lên. Cứ tung lên rớt xuống như
dây của trẻ em tung để cùng nhảy với nhau. Ghe bè lên xuống, phải canh cho đúng
lúc dây tung lên để lướt nhanh qua thác. Nếu qua không kịp thì bị dây quất
xuống, ghe bè không vỡ cũng chìm, còn người không hộc máu chết tại chỗ, khi về
nhà cũng bị sưng mình mẩy mà chết. Tai nạn xảy ra luôn.
Người
địa phương tin là dây thiêng, không ai dám xúc phạm.
Một
nho sinh quyết liều chết để cởi ách cho đồng bào. Chàng mài một lưỡi rựa thật
bén, rồi đến chặt đứt hai đầu dây. Nhựa cây như huyết heo tuôn đỏ cả mặt nước.
Thấy vậy kẻ mê tín càng tin rằng đó là huyết của cây thành tinh, và chắc thế
nào nho sinh cũng bị yêu ma bắt chết. Chàng nho sinh sau khi về nhà, kẻ thì đồn
rằng bị hộc máu chết, người thì cười bảo “chàng bị Diêm Vương đòi hỏi tội lúc
tuổi đã quá cao”. Không biết lời nào phải. Chỉ biết rằng nhờ lòng nghĩa hiệp
của chàng nho sinh mà võng tinh không còn và ghe bè qua thác được dễ dàng, yên
ổn.
Một
nhà nho nghe chuyện nho sinh, đắc ý vỗ đùi ngâm:
Trên đời chẳng có nhà Nho,
Thời nơi Thác Võng mối lo mãi
còn.
Cho hay giấy trắng lòng son,
Nghìn thu tô điểm nước non thêm
tình [8].
THÁC NHÉT
Giữa
thác có nhiều đá nằm như thúng úp. Dưới thác có một lỗ to lớn lõm sâu vào vách
núi, tục gọi là Lỗ Đoi. Nước thác chảy rất mạnh, và bị đá chận thành có nhiều
nơi chảy vòng nong theo kẽ đá. Ghe bè xuống thác, nếu không cẩn thận thì thường
bị nước tống vào kẹt đá hoặc vào Lỗ Đoi, mắc cứng như bị nhét.
Vì
vậy mà thác mệnh danh là thác Nhét.
Để
qua thác được bình an, mỗi khi đi ngang qua Lỗ Đoi, người cầm sào lấy sào thọc
vào lỗ mấy cái. Đó là tục lệ xưa nay. Các nhà văn nhà thơ thấy vậy mới đặt cho
thác Nhét một mỹ hiệu là “Mỹ Nhân quan”. Và những khách anh hùng muốn được “dị
quá” phải “tùng tục” [9].
Đến
viếng Lỗ Đoi, du khách không khỏi liên tưởng đến hồ Lỗ Đĩ và miếu Lỗ Lườn ở Vạn
Ninh. Có lẽ đó là tục thờ Lingam và Yoni của người [10] Chàm còn
truyền lại.
Lỗ
Đoi cũng là một đề tài của khách ngâm vịnh. Được truyền tụng là bài của cụ tú
Phan Duy Tuần họa vận bài của cụ Đông Giả:
Trèo lên thì dễ, xuống mà coi,
Ghe nhét nhiều lần tại Lỗ Đoi.
Nước chảy vòng nong gành rậm rịt,
Đá hàng úp thúng lạch thoi loi.
Hiểm sâu quen thói chôn đồ đạc,
Lăn lóc cam phần ngủ bãi doi.
Ai bảo rằng linh? Dâm tợ đĩ!
Bao nhiêu sào chọt với dầm moi. [11]
Nhà thơ trào phúng Định Phong lại nhập cả ba cảnh
vào mấy vần, nghe cũng ngộ nghĩnh:
Phải chăng vì giống vì nòi
Trời sanh Lỗ Đĩ, Lỗ Đoi, Lỗ Lườn.
Làm trai đầu cuống chưa tường,
Muốn xem tận mặt tìm đường đến
xem.
Khỏi cần hỏi chị hỏi em,
Chẳng lo mất gạo nõ thèm giả
đui...
Lượng xuân vốn chẳng hẹp hòi,
Chứa chan tình nghĩa, mặn mòi ái
ân.
Còn
các thác khác, không có gì đặc biệt.
Và
các thác kể trên, hầu hết nguy hiểm. Nhưng nguy hiểm nhất là Ngựa Lồng, Trâu
Đụng và Dằng Xay. Cho nên ca dao địa phương có câu:
Ngựa Lồng Trâu Đụng Dằng Xay
Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà
ngồi.
Đó
là nói việc đi xuống. Chớ đi lên thì ai cũng ngán Thác Ngựa, vì quá dài.
Trường
Xuyên thời Tiền Chiến đã mượn thác Ngựa để gởi chút lòng nhắn cùng người “đồng
hội đồng thuyền”.
Anh muốn tìm
nguồn trong
Nên đi ngược dòng sông Cái?
Hay bị bùa bị ngải
Nên anh bỏ bãi lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn,
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn
buồm trở lui.
Thề xưa lời đã nặng lời,
Anh cố xa em đi nữa,
Chẳng phải ý trời thời cũng khó
xa.
Anh đi em ở lại nhà,
Biển sâu lặn lội,
Em nuôi mẹ già thay anh.
Trên
các nhánh sông, nhánh nào cũng có nhiều thác. Song có tiếng nhất là thác Giang
Lo, vì rất nguy hiểm.
THÁC GIANG LO
Nằm trên sông Giang.
Cao
đến hai thước và đứng sững như vách.
Cách
chân thác chừng mười lăm hai mươi thước lại có một hòn đá to lớn nằm ló đầu lên
mặt nước. Bè ghe xuống thác thường bị tột vào đá vỡ tan. Cho nên những tay sào
đi trên sông cái, dù tài giỏi đến đâu cũng không dám đi trên sông Giang.
Ghe
đi trên sông Giang, hễ gần đến thác Giang Lo thì phải lo cất hết hàng hóa xuống
để cho ghe qua thác rồi mới chất trở lên. Còn bè thì người chống phải ngồi bám
vào bè cho thật chặt và ngọn sào phải để sẵn một bên. Bè xuống khỏi thác thì
chìm sâu lút đầungười. Đến khi nổi lên thì tay sào phải sẵn sàng để chống vào
đá, cho bè thuận theo dòng nước mà xuôi.
Người
ta bảo rằng:
-
Vì đi trên sông Giang, đến thác nầy ai nấy đều lo sợ, cho nên gọi là thác Giang
Lo.
Nhưng
sự thiệt thì Giang Lo là tiếng Thượng, đọc và viết theo tiếng Kinh.
Còn
các thác khác cũng có nhiều cảnh lạ, nhưng khó mà đi đến, nên du khách tạm dừng
chân nơi Giang Lo, để lấy sức trở lui xuống sông Cái.
*
* *
Từ
nguồn chí biển, Sông Cái tức sông Nha Trang, vượt qua nào núi nào rừng, nào
ruộng nương thôn ấp. Nếu sẵn tài Tống Địch, thì thế nào cũng có ít nhất tám
cảnh Tiêu Tương [12].
Trong
khi chờ mộng Giang Yêm [13],
thì xin giới thiệu “thực chất” của sông Nha Trang, để khi mộng thành thì được
“văn chất bân bân” cho khoái tâm khoái khẩu:
Sông Nha Trang có nhiều cá. Nhưng có một giống
cá mà các bà nội trợ nặng tình Mạnh Quang thường mua về để “cử án”[14]. Đó
là cá Đục. Thứ cá nầy không phải riêng sông Nha Trang mới có. Song cá Đục Nha
Trang đặc biệt hơn các sông khác là thịt đã ngọt lại thơm.
Nhân
vị đặc biệt ấy mà thời Nhật Pháp tranh quyền trên lãnh thổ Việt Nam
(1940-1944), một người ở Nha Trang [15] đã mượn
con cá Đục để gởi tâm sự cùng bạn đồng chí:
Sông Nha
Trang,
Cát vàng nước lục,
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang,
Đã nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa
bò trắng,
Anh nỡ phụ phàng nước non?
Đó,
sông Nha Trang, tức Cù Giang, tức sông Cái, mới ngó qua tưởng không có gì đặc
sắc. Nhưng nếu rõ được ngọn nguồn lạch sông, thì hưởng được không biết bao
nhiêu thú vị, thú vị về phong cảnh, về lịch sử, về truyền thuyết... mà muốn hưởng
được trọn phải chịu khó đến tận nơi.
C
Ngoài
hai con sông lớn thượng dẫn, Khánh Hòa còn một số sông nhỏ. Đáng để ý là những
sông sau đây: Quận VẠN NINH.
SÔNG TÔ HA
Phát
nguyên ở các núi nơi ranh giới Phú - Khánh. Chảy qua Tu Bông rồi chảy xuống
vũng Trâu Nằm thuộc vịnh Vân Phong. Trên thượng lưu có đập ngăn nước gọi là Đập
Sổ.
SÔNG BÌNH SƠN
Đây
là một cái suối thường gọi là suối Bình Trung. Phát nguyên từ hòn Giúp, chảy
qua Từ Chánh, Trung Dõng, Bình Trung rồi chảy xuống cửa Giã, vịnh Vân Phong.
SÔNG VẠN GIÃ
Tục
gọi là sông Hâu. Có hai nguồn: một từ vùng núi Tam Phong ngoài ranh giới Phú -
Khánh chảy vào; một từ Hòn Chảo chảy xuống, qua Hiền Lương, rồi cùng nhánh kia
hợp lại chảy xuống cửa Giã, vịnh Vân Phong. Sông nầy nằm phía trong Vạn Giã.
Quận
NINH HÒA có một con sông nhỏ, bên cạnh sông Dinh. Đó là:
SÔNG CẦU LẤM
Tên
chữ là Ngọc Sơn, phát nguyên từ Hòn Bà: Có hai phụ lưu là hai thắng cảnh của
Khánh Hòa: suối Cát và suối Đá Chẻ[16]. Sông
chảy xuống vũng Nha Phu.
Quận
VĨNH XƯƠNG có:
SÔNG PHÚ HỮU
Do
nước Ba Hồ, một thắng cảnh của Khánh Hòa[17] chảy ra
rồi chảy xuống vịnh Nha Phu.
SÔNG ĐỒNG BÒ
Đây
là nhánh Nam phái cũ của sông Nha Trang. Ngọn nước bị lấp, dòng nước nhiều khúc
cạn thành đồng bằng, nhiều khúc còn đọng thành bàu, chỉ khi mưa lụt mới thấy
lại dạng sông cũ. Mùa nắng sông nhờ nước ở Suối Dầu do một suối nhỏ, tục gọi là
sông Dinh, chảy xuống Đồng Bò, đến Trường Đông, để ra Cửa Bé.
Do
đó mà sông cũng thường gọi là sông Trường Đông hay sông Cửa Bé.
Ở
quận Diên Khánh, có một con sông vừa nhỏ vừa cạn, không có gì đặc biệt, thế mà
nổi danh, vì hành khách đi trên đường Quốc Lộ phải đi ngang qua một cái cầu bắc
trên sông và mang tên sông. Đó là:
SÔNG CẠN
Một
nhánh nhỏ của sông Cái tức sông Nha Trang.
Trong
Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là Hạc Giang [18] và chép
rằng sông nầy do mương ngòi trong các đồng ruộng chảy dồn lại chớ không có
nguồn.
Sự
thật thì “nguồn” ở tại bờ sông cái phía Nam, cách đầu cầu Chợ Thành qua Phú Lộc
chừng trăm thước. Nhưng nước ở sông Cái chỉ khi nhiều lắm mới tràn vào sông
Cạn.
Ngoài
nước sông Cái, sông Cạn còn nhận nước các đồng ruộng, như Đại Nam đã chép,
nhiều nhất là nước Cầu Lùng.
Cầu
Lùng ở phía Nam thành Diên Khánh, trên con đường Quốc Lộ số 1. Tại bến xe Thành
đi vào thì tới Cầu Lùng rồi tới cầu Sông Dinh.
Dưới
Cầu Lùng có một lỗ nước rộng lớn và rất sâu, mùa hạ nắng mấy cũng không cạn.
Cũng
có thể gọi vũng Cầu Lùng là “ngọn nguồn” thứ hai của sông Cạn.
Sông
Cạn chảy qua Phước Thạnh, Võ Kiện, Võ Cạnh, xuống Phú Vinh để cùng các mương
rãnh dồn nước chảy vào Cửa Bé những lúc trời mưa to.
Phong
cảnh của con sông cũng như của cầu Sông Cạn, không có gì ngoạn mục.
Nhưng
cầu Sông Cạn là một cầu lịch sử.
Năm
Bính Tuất (1886) dưới triều Đồng Khánh hai nhà lãnh đạo nghĩa binh Cần Vương là
Trịnh Phong và Nguyễn Khanh tuẫn quốc nơi gò bên cầu [19]. Và 24
năm sau đến lượt chí sỹ Trần Quý Cáp.
Nguyên
cuối triều Thành Thái đầu triều Duy Tân, cụ Trần Quý Cáp, hiệu Thái Xuyên,
người làng Bất Nhị, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, đậu Tiến Sỹ, vào ngồi
giáo thọ huyện Tân Định, tỉnh Khánh Hòa.
Cụ
là một nhà chí sĩ cùng các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng
là chỗ thâm giao.
Khi
ngồi giáo thọ Tân Định, Trần chí sĩ ngấm ngầm tuyên truyền chống nào khoa cử,
bài trừ hủ tục, hô hào chấn hưng công thương...
Biết
rằng chí sĩ là một nhà cách mạng nguy hiểm, bọn thực dân và bọn quan An Nam,
tay sai của chúng, luôn luôn theo dõi. Để tránh sự dòm giỏ ngó treo của bọn chó
săn, các thơ từ của chí sĩ, thơ nhà cũng như thơ ngoài, đều gởi cho quan huyện
Tân Định. Quan huyện Tân Định lúc bấy giờ là cụ Tấn Sỹ Hồ Sỹ Tạo, người Hòa Cư,
phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, bạn đồng khoa cùng chí sĩ. Nhờ vậy mà chữ thánh
hiền không bị mắt cú vọ rây nhơ.
Năm
Mậu Thân (1908) ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định nổi lên phong trào “xin xâu
xin thuế”. Đồng bào hớt tóc ngắn kéo nhau đến Tỉnh yêu cầu Chánh phủ giảm bớt
xâu thuế. Phong trào rất sôi nổi. Để trấn an nhân tâm bọn thực dân phong kiến
sau khi thấy bắn giết không đi tới đâu, bèn hứa hẹn thỏa mãn lời yêu cầu. Đồng
bào giải tán, chúng lùng bắt những người cầm đầu, lớp bỏ tù lớp xử tử.
Trong
khi phong trào đương sôi nổi, gia đình cụ Trần gởi thư vào nói rõ tình hình và
thỉnh ý cụ. Theo thường lệ, thư gởi cho quan huyện Tân Định. Chẳng may lúc bấy
giờ cụ Hồ Sỹ Tạo về Bình Định linh gian cho bà cụ thân sinh. Quyền tri huyện là
Phan Bá Hoành mở thư ra xem, liền đem trình cho Tỉnh để lập công hầu mong được
thực thụ chức tri huyện Tân Định.
Quan
tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ là Phạm Ngọc Quát làm Tuần Vũ và Nguyễn Mại làm án
sát.
Gặp
được dịp tỏ lòng trung thành cùng chủ, Phạm Ngọc Quát cùng Nguyễn Mại, một mặt
tư Sứ và Bộ, một mặt bắt tống lao nhà chí sĩ. Cụ Hồ Sĩ Tạo đương ở nhà cư tang
cũng bị liên lụy.
Hai
cụ bị kết án tử hình vì tội mưu đồ phản loạn. Cụ Trần bị xử lăng trì. Cụ Hồ bị
trảm quyết. Triều đình Huế xét “không có gì nặng” giảm án cụ Trần xuống trảm
quyết và cụ Hồ khổ sai chung thân!
Cụ
Hồ bị nhốt ở ngục Bình Định. Trong ngục cụ có câu:
Thảo mẹ ba năm lòng cỏ thẹn,
Chăn dân tám
tháng vận cầm rơi.
Cụ
Trần bị hành quyết tại cầu Sông Cạn.
Cụ
bước ra pháp trường với thái độ thản nhiên. Cụ lấy chiếc khăn nhiễu bịt đầu đưa
cho tên đao phủ:
-
Sự nghiệp của tôi chỉ có chừng nớ. Chú cầm lấy và chém tôi một đao cho mát.
Trời
đương nắng bỗng kéo mây và gió lạnh thổi! Đồng bào không cầm lòng được, khóc
rống! Bọn thực dân cũng tỏ vẻ bùi ngùi. Riêng bọn quan An Nam, tay sai của
chúng, lấy làm đắc ý vì đã tỏ được lòng khuyển mã cùng quan thầy lại trừ được
cái đinh chính nghĩa ở trước đôi mặt tà nịnh. Chúng lại còn buộc gia đình phải
mai táng cụ Trần tại Khánh Hòa! Mãi mười lăm năm sau, trung cốt mới được đưa về
cố thổ. Người có tâm trong nước, ai cũng căm giận phường gian nịnh, vì danh lợi
mà bán tâm hồn cho giặc, phản quốc phản dân.
Và
người Khánh Hòa in sâu cảnh tượng thương tâm vào lòng vào não. Cho nên mùa xuân
năm Ất Mão, sau khi Nhật lật đổ Pháp (1945), nhân trong thành phố Nha Trang có
mấy con đường mới cần đặt tên, các thân hào nhân sĩ Khánh Hòa liền đề nghị đặt
tên Trần Quý Cáp cho con đường chạy trước mặt nhà của hậu duệ Phạm Ngọc Quát,
để kẻ qua người lại lấy đó mà làm gương. Và các ông già bà cả đã chứng kiến
thảm cảnh năm Mậu Thân (1908) còn sống sót đến nay, hễ nhắc đến chuyện xưa đều
không cầm được nước mắt!
Còn
con sông Cạn đến mùa nắng thì nước khô. Nhưng nơi cầu, nước không bao giờ ráo.
Phải chăng đó là giọt lệ khóc anh hùng tích tụ, dòng hận của khách “Quốc thù vị
báo” còn lưu?
Từ
Nha Trang đi lên, trước khi đến Chợ Thành Diên Khánh thì phải qua cầu Sông Cạn.
Qua cầu Sông Cạn, nghĩ đến chuyện chí sĩ Trần Quý Cáp, đến hai vị anh hùng họ
Trịnh họ Nguyễn, người hữu tâm không thể hững hờ đi qua.
* * *
Khánh
Hòa còn một ít con sông khác, nhưng không đáng kể.
Có
một điểm đáng lưu ý là sông Khánh Hòa, mặc dù phát nguyên ở nội địa, sông nhỏ
cũng như sông lớn, mùa nắng, cạn thì có cạn chớ ít khi khô rốc. Vì núi nhiều
cây, trời thường mưa, khe suối luôn luôn trữ nước. Cho nên có câu:
Sông không khô nhờ nguồn trữ
nước,
Con cái sang giàu nhờ phước cha
ông.
IV
ĐỒNG BẰNG
Tỉnh
Khánh Hòa, núi rừng chiếm hết 15/16 diện tích. Đồng bằng chỉ còn 1/16 tức
33.950 ha. Đất đã khai hiện nay trên 32.000 mẫu tây.
Từ
Gia Long đến Tự Đức ruộng đất Khánh Hòa, theo bộ thuế điền thổ, gần 12.600 mẫu
ta, tức 6.800 mẫu tây. Năm Thành Thái thứ mười (1898) số ruộng đất lên được gần
29.155 mẫu, năm thứ 11 (1899) lên 30.028 mẫu dư, đến năm thứ 18 (1906) lại lên
đến 31.260 mẫu ta tức 15.630 mẫu tây.
Đem
so với diện tích trồng tỉa hiện thời thì nay ruộng đất rộng gấp đôi xưa.
Đó
là theo giấy tờ. Trên thực tế thì từ trước đến giờ, ruộng đất Khánh Hòa, trừ
những đồn điền của người Pháp mới khai khẩn thời Pháp thuộc, không tăng cũng
không giảm. Diện tích ghi trong bộ thuế điền thổ không đúng sự thật. Từ đời
Thành Thái trở xuống thuế má luôn luôn tăng. Để đủ số thuế Nhà Nước ấn định cho
mỗi tỉnh, Chánh quyền địa phương không gia tăng giá biểu mà lại gia tăng diện
tích trồng tỉa, mặc dù trên thực tế ruộng đất không hề tăng một tấc nào. Cho
nên từ Thành Thái thứ 10 đến thứ 18 mà diện tích tăng gấp bốn lần!
Con
số 32.100 mẫu tây cũng là con số trong sổ bộ hiện thời. Có sai chăng cũng chỉ
sai chút ít thôi.
Ruộng
đất Khánh Hòa đã hẹp mà còn bị núi đồi chia cắt từng vùng, từng khoảnh, thành
thử ít nơi có cảnh “cò bay thẳng cánh”, có cảnh “lúa ngập lút mây”.
Nhiều
ruộng đất nhất và ruộng đất tốt nhất là Ninh Hòa, thứ đến Diên Khánh. Vạn Ninh,
Vĩnh Xương và Cam Lâm, đất trồng tỉa không được nhiều bằng hai quận kia. Còn
Khánh Dương thì đất núi chỉ thích hợp với cỏ và tranh săng. Ruộng đất ít.
Người
xưa đã đặt cho những cánh đồng Khánh Hòa nhiều tên rất “thực tế” và rất “bình
dân”.
Ở
Vạn Ninh có:
-
Đồng Găng, Đồng Mốc, Đồng Đáy, Đồng Miễu, Đồng Gáo, Đồng Bà Chỉ, Đồng Lớn, Đồng
Bé, Đồng Đụt...
Ở
Ninh Hòa có:
-
Đồng Cháy ở phía Đông quận lỵ,
-
Đồng Nay, Đồng Chuôm ở vùng phía Tây quận lỵ.
Ở
Vĩnh Xương có:
-
Đồng Đế ở phía Bắc thành phố Nha Trang và gần quận lỵ Vĩnh Xương,
-
Đồng Bò ở phía Nam thành phố Nha Trang.
Ở
Diên Khánh có:
-
Đồng Nga, Đồng Lũy. Đồng Dài, ở phía Bắc ngạn Sông Cái.
-
Đồng Trăng, Đồng Sậy, Đồng Cọ, Đồng Lớn... ở phía Nam ngạn.
Ở
Cam Lâm có:
-
Đồng Lác, nay đã thuộc về thị xã Cam Ranh.
Đó
là những cánh đồng thường được nhắc nhở đến. Và tên đồng đã dựa theo những đặc
điểm của đồng mà đặt. Nhưng cảnh sắc đã nhiều thay đổi, nên hiện nay có nhiều
cánh đồng, không hiểu tại sao lại mang tên như thế. Ví dụ: Đồng Đế, Đồng Bò,
Đồng Cọ, Đồng Nga... Hỏi thăm, một ông lão cười:
Người đâu hỏi chuyện khùng khiên
Xưa đặt nay truyền chớ biết vì
sao!
Hiện
nay, để tiện lợi trong việc thực hiện chính sách xây dựng nông thôn, cơ quan
hữu trách chia ruộng đất Khánh Hòa ra thành nhiều cánh đồng, và tên đồng gọi
theo tên những thôn ấp quan trọng.
Vạn
Ninh có những đồng:
-
Tu Bông (Tân Phước, Hội Khánh).
-
Vạn Giã (Tứ Chánh, Bình Trung, Phú Cang, Quảng Hội).
-
Mỹ Đồng v.v...
Ninh
Hòa có:
-
Đồng Xuân (Đồng Thân , Nghi Xuân).
-
Vĩnh Thịnh,
-
Ninh Ích,
-
Đại Tập, Đại Mỹ,
-
Ninh Hòa (Hà Thanh, Vĩnh Phước, Thanh Châu).
-
Tân Hưng, Trường Lộc v.v...
Vĩnh
Xương có:
-
Phú Hữu,
-
Xuân Phong,
-
Phú Vinh v.v...
Diên
Khánh có:
-
Tứ thôn Đại Điền (Đ.Đ Trug, Đ.Đ Nam, Tây, Đông).
-
Phú Khánh, Nghiệp Thành.
-
Thanh Minh.
-
Đồng Trăng (Khánh Xuân, Khánh Lâm) v.v...
Cam
Lâm có:
-
Hội Xương,
-
Vĩnh Phú v.v...
Ruộng
gần nước thì làm hai mùa, ruộng xa nước thì làm một mùa. Ruộng rộc thì cấy
ruộng gò thì gieo.
Ở
Trung Việt, ruộng đất Khánh Hòa đứng vào hàng ưu tú. Nhưng đối với đồng Nam
Việt thì còn kém xa.
Tuy
vậy, đồng Khánh Hòa thời bình vẫn đủ nuôi nhân dân Khánh Hòa. Cho nên người
nông dân Khánh Hòa vẫn cao giọng hát:
Mẹ người áo gấm người yêu,
Mẹ ta áo vải ta chiều ta thương.
* * *
[1] Có tên như thế vì nước sông thường có chất nhựa cây ráy ở hai bên
bờ tiết ra sắc đỏ như máu. Rất độc.
[2] Trong các bản đồ đều ghi là sông Ky.
[3] Chữ Giang trong tên Sông Giang, nghĩa là thần. Tiếng của người
Thượng.
Sãi Me trong các
bản địa đồ Pháp Mỹ ghi là Sẩy Me và Sông Cầu ghi là Sông Cao.
[4] Thơ của Chế Lan Viên làm thời kháng chiến (1945-1954).
[5] Xem phần “Thắng Cảnh” ở sau.
[6] Cũng như Quy Nhơn, Pháp lấy tên Phủ ngày xưa mà đặt.
[7] Cũng gọi là thác Ngựa Oằn, vì nước chảy qua ba tảng đá trông
giống như lưng ngựa bị oằn xuống.
[8] Dây rừng giăng qua Thác Võng, có người thì bảo là dây tràm, có
người bảo là rễ cây ráy. Có lẽ là rễ cây ráy, vì giống cây này rất độc, và nhựa
màu nâu nâu, hễ dính vào người thì ngứa ngáy, gãi lở rồi làm độc.
[9] Cổ thi có câu “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan”.
[10] Xem phần III, mục nói về cổ miếu.
[11] Bài thơ nầy tả chung cả cảnh tượng thác Nhét và Lỗ Đoi.
Việc thọc sào vào
lỗ là một cách chống cho ghe bè khỏi chui vào đó mà bị kẹt. Sau thành ra tục
lệ. Nhưng sao ở miếu Lỗ Lườn ngoài Vạn Ninh cũng có lệ “thọc” như thế mỗi lần
cúng tế?
[12] Tống Địch người đời Tống có tám bức họa những cảnh vùng Hồ Nam
gọi là Tiêu Tương bát cảnh.
[13] Giang Yêm cũng người đời Tống, nằm mộng thấy bút trổ bông, văn
chương trở nên lỗi lạc, thi đỗ trạng nguyên.
[14] Mạnh Quang đời Hán thờ chồng hết lòng. Đưa vật gì cho chồng cũng
nâng cao ngang mày (cử án tề mi).
[16] Xem chương Thắng Cảnh.
[17] Xem chương Thắng Cảnh.
[18] Hạc là cạn, Hạc Giang: Sông Cạn.
[19] Xem phần “Lịch sử” ở trước và mục “Phong trào Cần Vương” trong
phần V ở sau.