NGUYỄN PHÚC ÁNH NỔI DẬY
ĐÁNH TÂY SƠN
Vua
Thái Đức về già không có ý chí chiến đấu, những văn quan võ tướng có tài số qua
đời, số về vườn, số theo Vua Quang Trung, số còn lại tuổi cũng đã cao, tài cũng
đã tận. Lớp người mới không có người đủ tài kinh bang tế thế. Vì vậy thế nước
vừa nổi lên cao lần lần xuống thấp, để rồi tàn.
Đông
Định Vương chỉ là một người có đức độ, không có tài trị nước yên dân. Những
nhân tài ở Quy Nhơn vào phò tá chết lần, về hưu gần hết... Mà Gia Định lại đất
rộng dân thưa, Vương không thể nào nắm vững được vây cánh. Nhà Nguyễn nhân đó
chiếm đóng nhiều nơi hiểm yếu và thỉnh thoảng kéo binh đánh phá quân Tây Sơn.
Trong xứ mất an ninh, lòng người ly tán.
Nguyễn
Phúc Ánh ở Xiêm La dò biết được tình hình, tháng 7 năm Đinh Mùi (1787) đem cung
quyền xuống thuyền về nước.
Nguyễn
Phúc Ánh được vây cánh cũ kéo quân ra giúp. Quân thế khá vững. Tướng Tây Sơn là
Phạm Văn Tham chống không lại, bỏ thành Sài Côn sang đóng ở Ba Thắc. Đông Định
Vương chạy về Quy Nhơn chịu tội cùng anh, rồi trở lên Kiên Mỹ thăm cố hương. Từ
ấy biệt tích.
Nguyễn
Phúc Ánh chiếm được Sài Côn tháng 8 năm Mậu Thân (1788).
Phạm
Văn Tham cầm cự cùng quân Nguyễn Phúc Ánh cho đến mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).
Đã đuối sức mà không thấy binh Quy Nhơn vào cứu. Phạm đem binh xuống thuyền,
định ra bể về Quy Nhơn. Nhưng bị quân Nguyễn Phúc Ánh chận lại, phải trở lui Ba
Thắc. Lâu ngày hết cả lương thực, Phạm đầu hàng và bị giết.
Từ
ấy Gia Định thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Làm
chủ đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh một mặt lo sửa sang việc nước, một mặt
nhờ Giám mục Bá Đa Lộc (Evêque d’Adran) đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin cầu
viện để đánh Tây Sơn. Được quân Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh
rước về với hai chiếc tàu đồng do Chaigneau tục gọi là Nguyễn Văn Thắng, chỉ
huy, và tàu Phụng do Vannier, tục gọi là Nguyễn Văn Chấn, điều khiển cùng một
số tướng tá như Dayot (Dat-do), Olliver (Ô-ly-vi-ê), De Forcant (Đờ
Phot-xăng)... phò tá, quân lực của Nguyễn Phúc Ánh mỗi ngày mỗi thêm sung thiệm
hùng cường.
Sau
một năm chuẩn bị, tháng tư năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Phúc Ánh sai Võ Tánh,
Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Câu... đem thủy lục quân ra đánh Tây Sơn ở Bình Thuận.
Binh Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn chống cự kịch liệt, không tiến quân nổi, sau ba
tháng giao tranh, phải rút về Gia Định.
Nguyễn
Phúc Ánh nhận thấy mỗi năm bắt đầu từ tháng 3 có gió mùa thổi từ Nam ra Bắc,
nên quyết định lợi dụng chiều gió để tấn công Quy Nhơn. Cho nên người đương
thời gọi những trận Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đánh Tây Sơn là “giặc mùa”.
Năm
Nhâm Tý (1792 gió Nam vửa bắt đầu thổi, Nguyễn Phúc Ánh liền sai nguyễn Văn
Trương, Nguyễn Văn thành cùng hai người Pháp là Nguyễn Văn Phấn (Dayot), Nguyễn
Văn Chấn (Vannier) đem chiến thuyền ra đánh Quy Nhơn.
Quân
nhà Nguyễn kéo vào cửa biển Thị Nại.
Cửa
biển Thị Nại tức là cửa biển Quy Nhơn. Phía đông có dãy núi Phương Mai, phía
tây có dãy núi Nhạn Châu tục gọi là Gành Ráng, làm cánh che. Từ thời Chiêm Thành
đến đời Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn luôn có quân phòng ngự. Vua Thái Đức lại cho
xây pháo đài ở hai dãy núi, và đặt đại bác ở trên núi bắn xuống mỗi khi bị giặc
tấn công.
Nhưng
lúc bấy giờ gió nam thổi mạnh, Binh Nguyễn dùng hỏa quân đốt phá thủy trại Tây Sơn.
Bị đánh thình lình lại có sức gió lửa quá mạnh, binh Tây Sơn không chống nổi
phải bỏ Thị Nại chạy về Quy Nhơn. Quân Nguyễn đổ bộ, nhưng liền bị quân Tây Sơn
từ Quy Nhơn kéo xuống đánh, phải rút lui.
Ở
Phú Xuân, Vua Quang Trung (lúc bấy giờ còn sống) được tin quân Nguyễn kéo đánh
Quy Nhơn, nổi giận liền chuẩn bị đại binh vào tận diệt nhà Nguyễn. Trần Quang
Diệu đi đường Lào xuống đông Miên có tướng Miên O Nha Long hưởng ứng, còn nhà
vua thì đem thủy binh vào cửa Cần Giờ. Trên đánh xuống, dưới đánh lên, mặt núi
mặt biển đều bị bao vây. Nguyễn Phúc Ánh không còn lối thoát. Một mặt Vua Quang
Trung tin cho Vua Thái Đức biết dự định của mình để hai bên cùng tiến vào bao
vây tiêu diệt toàn bộ lực lượng Nguyễn Phúc Ánh, một mặt gởi cho nhân dân Quảng
Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn bài hịch kêu gọi mọi người hăng hái tham gia cuộc
tấn công sắp tới.
Bài
hịch đại khái nói rằng:
“Quân
Tây Sơn đã lập được không biết bao nhiêu chiến công oanh liệt. Diệt quân Xiêm
La, thắng quân Mãn Thanh. Bao phen đánh quân nhà Nguyễn không còn mảnh giáp
phải chạy ra cầu viện nước ngoài. Nay Nguyễn Phúc Ánh rước quân Pháp về phá rối
nước nhà, vâng mệnh đức Hoàng Huynh, ta chuẩn bị một đạo thủy bộ hùng binh, sẽ
thân hành kéo vào Nam diệt giặc. Giặc nhà Nguyễn chỉ là “bè củi mục”. Quân Tây
Sơn sẽ thu hồi đất Gia Định trong nháy mắt.
Lại
khuyên nhân dân không nên sợ bọn người Tây Dương. Chúng chỉ là nhứng xác chết.
Những chiếc tàu đồng, những khinh khí cầu của chúng không có gì đáng sợ...”
Tin
Vua Quang Trung sẽ tấn công vào Gia Định làm cho nhân dân miền Nam phấn khởi,
làm cho Vua tôi nhà Nguyễn và bọn Pháp vô cùng lo sợ. Nhưng cuộc hành binh
không thực hiện được, vì đương mùa gió nam, thuyền đi vào bất lợi, nhất là tại
khúc đường đi ngang qua bán đảo Triều Châu tại Quy Nhơn. Nơi đây tại Eo Vược
gió thổi mạnh gấp ba gấp bốn gió ngoài khơi, gọi là nam lò. Ghe thuyền gặp lúc
nam lò thổi thì khó tránh khỏi tai nạn. Cho nên khách hàng hải có câu:
Cha chết không lo
Hỏi thăm nam lò thổi dịu hay săng
Giáo
sĩ Le Labouse gởi thư cho bạn, có đoạn rằng:
“Tháng
2 năm 1792, chúng tôi phải rời bỏ con chiên để tránh quân địch Tây Sơn. Họ sẽ
kéo đến vài chục ngàn người, do đường Lào tiến vào Cao Miên. Người Cao Miên
cũng dự tính theo họ nữa. Nguyễn Huệ sẽ đem hải quân ngăn chặn các cửa biển Nam
Kỳ. Nếu dự định này được thi hành thì nhà vua và chúng tôi chỉ còn chờ chết.
Nhưng nhờ ơn trên, dự định này không thấy thi hành. Chắc quân Tây Sơn e ngại
các chiến hạm của người Âu Châu đóng đầy sông Sài Gòn do việc buôn bán...”.
Vua
Quang Trung đợi sang thu, gió đông bắc thổi sẽ xuất chinh nhưng rủi bị cảm rồi
băng.
Vua
Quang Trung băng, các nhà truyền giáo Kitô mừng. Nguyễn Phúc Ánh càng mừng.
Tháng
3 năm Qý Sửu. Nguyễn Phúc Ánh để Hoàng tử Cảnh ở lại giữ Gia Định với Giám mục
Bá Đa Lộc, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đem bộ
binh ra đánh Bình Thuận, còn mình cùng Võ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem thủy
binh đi đánh mặt bể.
Binh
của Tôn Thất Hội đến Bình Thuận bị binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh, không
tiến nổi.
Thủy
binh của Nguyễn Phúc Ánh vào cửa bể Nha Trang, đi ngược dòng sông Cù, kéo lên
đánh Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận đánh tại bến Trường Cá làng Phương Sài. Hai
bên kịch chiến. Thuyền chìm người chết đầy cả khúc sông. Cuối cùng quân Tây Sơn
không chịu nổi sức súng của Pháp phải tan rã. Nguyễn Phúc Ánh kéo lên Diên
Khánh. Quân Tây Sơn bỏ thành về Quy Nhơn.
Thừa
thắng Nguyễn Phúc Ánh đánh thẳng ra Phú Yên. Thành Phú Yên cũng bị thất thủ sau
mấy ngày chiến đấu anh dũng.
Diên
Khánh bị thất thủ, quân Bình Thuận mất hậu thuẫn, Nguyễn Quang Huy bị quân Tôn
Thất Hội đánh thua, kéo quân chạy về Quy Nhơn chận quân Nguyễn.
Tôn
Thất Hội chiếm được Bình Thuận thì liền được thư của Nguyễn Phúc Ánh bảo tiến
binh ra hội với Thủy Sư ở Phú Yên để hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.
Thủy
binh Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Thị Nại. Vua Thái Đức sai Thái tử Nguyễn Bảo đem
binh chống cự. Nguyễn Phúc Ánh mật sai Võ Tánh đem binh lẻn đi hội với toán
quân Tôn Thất Hội. Nguyễn Văn Thành đánh tập hậu. Nguyễn Bảo bị đánh hai mặt,
không chống nổi phải rút quân về thành Quy Nhơn. Quân Nguyễn Phúc Ánh kéo lên
đánh thành Quy Nhơn.
Liệu
thế không chống cự nổi, Vua Thái Đức sai sứ ra Phú Xuân cầu viện.
Vua
Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng, Hộ Giá Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư Lộ Lộ
Trung và Đại Tư Mã Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 thớt voi đi đường bộ,
lại sai Đại Thống lĩnh Đặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền đi đường bể, cả hai
đạo vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn
Phúc Ánh nhận thấy viện binh hùng hậu, không thể chống nổi, liền rút đại binh
về Diên Khánh.
Quân
nhà Nguyễn rút ra khỏi Quy Nhơn, Vua Thái Đức mở cổng thành đón binh Phú Xuân.
Phạm Công Hưng vào thành truyền giải giáp quân Thái Đức và sai quân chiếm giữ
các kho tàng, Ngô Văn Sở can không được. Vua Thái đức uất ức thổ huyết mà chết.
Vua
Thái Đức ở ngôi được 16 năm (1778-1793) thọ 52 tuổi.
Ngự
cốt được đưa về an táng trong vùng núi Tây Sơn .
Vua
Cảnh Thịnh phong cho Thái tử Nguyễn Bảo là Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi
là Tiểu Triều, dinh đóng tại lỵ sở Tuy Viễn, bà chánh cung họ Trần đem hai
người con nhỏ là Văn Đức và Văn Lương về sống nơi quê hương Kiên Mỹ để được gần
gũi lăng Vua, cho tiện việc hương khói.
Các
đại thần của Vua Thái Đức, nhờ Ngô Văn Sở can thiệp, khỏi bị hại. Phần nhiều
lấy cớ tuổi già sức yếu xin về sống cùng vườn ruộng, một số ở lại làm việc, vì
bảo rằng Vua Thái Đức hay Vua Cảnh Thịnh cũng đều là người của đất Tây Sơn.
Vua
Cảnh Thịnh để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại trấn thủ Quy Nhơn. còn Phạm Văn
Hưng, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân cùng các tướng phò Vua Thái Đức đều rút về Phú
Xuân. Sau đó những quan văn quán Quy Nhơn cũng bị đưa đi phục vụ ở các nơi khác
và đưa những người ở nơi khác, nhất là người Phú Xuân vào giữ những chức vụ
quan trọng ở phủ huyện Quy Nhơn.
TÌNH HÌNH DIÊN KHÁNH
VÀ PHÚ XUÂN
VÀ PHÚ XUÂN
Nguyễn
Phúc Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh mùa thu năm Quý Sửu (1793). Nhận
thấy địa thế Diên Khánh hiểm trở, Nguyễn Phúc Ánh cho xây thành đào hào ở phủ
lỵ để làm Tổng hành dinh và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần Trường Cá gần cửa
bể Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt bể.
Thành
nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh. Chung quanh đắp đất, chu vi
366 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tấc. Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên
có vọng lâu tứ diện thông phong. Trên thành có đặt súng đại bác ở bốn mặt.
Trên
dãy núi có trại xưởng ở Nha Trang cũng đặt súng đại bác và có thủy quân đóng.
Do đó núi mang tên là núi Xưởng hay núi Trại Thủy[1].
Công
việc phòng thủ lo xong, Nguyễn Phúc Ánh giao Diên Khánh cho Nguyễn Văn Thành
trấn, còn mình thì kéo tướng sĩ về Gia Định. Sau đó cho Hoàng tử Cảnh và Giám
mục Bá Đa Lộc ra tăng cường.
Năm
Giáp Dần (1794), Vua Cảnh Thịnh sai Lê Văn Hưng vào đánh Phú Yên và Trần Quang
Diệu vào đánh Diên Khánh.
Lê
Văn Hưng kéo quân đến Cù Mông thì gặp Nguyễn Quang Huy.
Nguyễn
Quang Huy sau khi bại binh ở Bình Thuận, không dám về Quy Nhơn, về quê hương ở
Phú Yên, chiếm cứ một nơi hiểm yếu trong dãy Cù Mông đợi dịp lập công chuộc
tội. Khi nghe binh Lê Văn Hưng kéo đánh Phú Yên thì liền đem quân ra hưởng ứng.
Lê Văn Hưng vốn đã quen biết Nguyễn Quang Huy từ trước, nên vui mừng hợp tác
với nhau.
Phú
Yên được chiếm đóng dễ dàng, Lê Văn Hưng để Nguyễn Quang Huy ở lại trấn thủ,
kéo binh về Phú Xuân.
Còn
Trần Quang Diệu vào Diên Khánh, quân trong thành không dám ra đánh, đóng chặt
cửa thành cố thủ. Thành kiên cố, Trần Quang Diệu không hạ nổi đành bao vây,
quân trong thành cạn lương thực.
Nguyễn
Văn Thành cho người lẻn về Gia Định cáo cấp. Nguyễn Phúc Ánh bèn đem đại binh
giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.
Nguyễn
Phúc Ánh thấy quân Tây Sơn còn mạnh và lại đương mùa gió bấc, tiến binh không
thuận tiện, đem Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Đa Lộc về Gia Định, để Võ Tánh ở
lại trấn thủ Diên Khánh thay Nguyễn Văn Thành.
Tháng
giêng năm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại đem thủy binh và bộ binh vào đánh
Diên Khánh. Võ Tánh giao chiến vài bận, liệu không đánh lại, đóng chặt cửa
thành cố thủ, đợi Gia Định cấp viện binh. Đến tháng 2, Nguyễn Phúc Ánh đem thủy
sư ra cứu Diên Khánh.
Thủy
quân Nguyễn Phúc Ánh không lên được Diên Khánh vì bị thủy binh Trần Quang Diệu
chận đánh ở Trường Cá Phương Sài, phải đóng ngoài biển Nha Trang và các nơi
hiểm yếu trên đất. Ngày ngày hai bên đều có đánh nhau. Người trong xứ không làm
ăn được yên ổn.
Thành
Diên Khánh vẫn bị vây chặt. Đoàn quân nào kéo ra cũng đều bị quân Tây Sơn tiêu
diệt hoặc đánh lui, thủy quân nhà Nguyễn cũng không làm sao qua lại Trường Cá.
Ưu thế nằm hẳn trong tay Trần Quang Diệu.
Chợt
Trần Quang Diệu được tin Phú Xuân có biến!
Ở
Phú Xuân, Bùi Đắc Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng quyền. Những người trước kia
theo Tuyên như Ngô Văn Sở, Lê Văn Hưng... cũng không chịu nổi hành vi gian ác
của Tuyên, nhiều khi tỏ thái độ bất bình. Tuyên muốn trừ khử nhưng chưa có dịp.
Nhân Lê Văn Hưng, sau khi thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy
giữ, đem quân về Phú Xuân. Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh trước, tỏ ý muốn
làm phản, tâu Vua chém đầu răn chúng. Vua Cảnh Thịnh nghe lời. Ngô Văn Sở can,
nhưng không được. Quan Phụ Chánh Trần Văn Kỷ can thiệp, Tuyên nổi giận giáng
chức, đày ra coi trạm Hoàng Giang. Sau đó Tuyên lại sai Ngô Văn Sở ra Bắc Hà
thay cho Võ Văn Dũng và gọi Dũng về Phú Xuân. Dũng về đến Hoàng Giang[2] thì
gặp Trần Văn Kỷ. Kỷ nói:
-
Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết,
nếu không sớm trừ đi, e bất lợi cho xã tắc. Ông nên lo liệu trước đi kẻo nữa ăn
năn không kịp.
Võ
Văn Dũng vốn tin trọng Văn Kỷ, liền nghe theo. Về Phú Xuân không vào triều, lén
cho mời Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn đến bàn mưu giết Bùi Đắc Tuyên. Nhận
thấy rõ lòng tàn nhẫn và tính phản phúc của Tuyên, Hưng và Huấn cùng lo ngại
đến thân phận của mình, bèn hưởng ứng ngay lời Dũng. Đêm đến kéo quân vây dinh
Thái Sư. Chẳng ngờ đêm ấy Tuyên có việc ngủ trong cung. Bọn Dũng vây luôn cả
cung và đòi Cảnh Thịnh giao Tuyên. Không dừng được, nhà vua phải bắt Tuyên đem
giao, Dũng hạ ngục Tuyên rồi một mặt cho Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con
Tuyên là Bùi Đắc Trụ, một mặt giả chiếu ra Bắc Hà bắt Ngô Văn Sở, giải về Phú
Xuân. Dũng phao cho Tuyên, Sở, Trụ mưu phản, đóng cũi nhốt đem dìm xuống sông
Hương! Vua Cảnh Thịnh biết là oan, nhưng không sao ngăn cản được, đành gạt nước
mắt khóc thầm!
Trần
Quang Diệu nghe tin, thất kinh, nói cùng các tướng:
-
Chúa thượng là người thiếu cương quyết để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong
không yên thì đánh ngoài thế nào được.
Bèn
ra lệnh rút quân về. Đi đường núi đã lâu lại không tiện, Trần Quang Diệu phải
mở đường biển theo gió nam mà đi cho nhanh. Nguyễn Phúc Ánh không dám cản đường.
Trần
Quang Diệu đến Phú Xuân, đóng quân tại An Cựu bên bờ phía nam sông Hương.
Võ
Văn Dũng cùng Nội hầu Nguyễn Thế Tứ cũng đem quân bản bộ đóng ở phía bắc sông
Hương, ỷ mệnh Vua cự nhau với Trần Quang Diệu.
Võ
Đình Tú lấy tình quen thân cả đôi bên, xin Vua Cảnh Thịnh cho phép đứng ra hòa
giải. Nhờ vậy mà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nối lại tình xưa, đem binh vào
thành, bệ kiến Vua Cảnh Thịnh.
Vua
Cảnh Thịnh phong cho: Trần Quang Diệu làm Thái Phó, Nguyễn Văn Huấn làm Thái
Bảo, Võ Văn Dũng làm Đại Tư Đồ, Nguyễn Văn Danh làm Đại Tư Mã, gọi là Tứ Trụ
đại thần, chung nắm quyền về dân sự và quân sự. Nhưng rồi có người dèm cùng
Cảnh Thịnh rằng Diệu nắm uy quyền trọng quá, e có ý khác. Cảnh Thịnh bèn thu
hết binh quyền, chỉ để Diệu giữ hư vị trong triều mà thôi. Diệu sinh nghi kỵ,
thường cáo bệnh không đi chầu, và ngày đêm cắt kẻ thủ hạ 200 người mang vũ khí
bên mình để phòng vệ.
Cảnh
Thịnh lại sợ Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng là bạn cố giao, ở gần
nhau bất lợi cho mình, bèn phong cho Tú chức Binh Bộ Tham tri vào coi quân ở
Quy Nhơn và Phú Yên.
Kế
đó Phạm Công Hưng bị bệnh mất. Nguyễn Thế tử bị thất sủng lén đem gia quyến đi
khỏi Phú Xuân.
Nguyễn
Văn Huấn đương trấn thủ Quy Nhơn bị Cảnh Thịnh triệu về kinh. Tư Đồ Nghĩa được
cử vào thay Huấn làm trấn thủ và Lại bộ Thị Lang Kính làm Hiệp Trấn giúp Nghĩa.
Huấn
về đến Phú Xuân, Thượng thư Hồ Công Diệu tâu cùng Cảnh Thịnh rằng Huấn ở Quy
Nhơn mưu kết thông cùng giặc, bị gọi về kinh tỏ ý bất bình. Cảnh Thịnh nghe
lời, đợi lúc Huấn vào chầu ra lệnh bắt giết.
Nguyễn
Văn Bảo nổi dậy đánh thành Quy Nhơn, nhưng quân lực quá yếu, nên liền bị đánh
tan. Bảo bị bắt nhận chìm xuống sông đến chết.
Nghe
tin dữ, bà họ Trần ở Kiên Mỹ liền đem hai con là Văn Đức, Văn Lương và cháu nội
con Nguyễn Bảo là Văn Đẩu, chạy lên An Khê nương tựa cùng Cô Hầu ở Mộ Điểu.
Tướng Cảnh Thịnh biết rõ, nhưng sợ tên thuốc của người Thượng nên không dám
đuổi theo.
Viên
Thái Phó Lê Văn Ứng tâu cùng Cảnh Thịnh rằng nội biến của Tiểu Triều là do Lê
Trung là người Quy Nhơn, trước có phò Vua Thái Đức, Cảnh Thịnh tin lời, triệu
Lê Trung vào triều, thét đao phủ quân bắt giết.
Con
của Lê Trung là Lê Chất đương làm thủy quân Đô Đốc trấn giữ cửa Thị Nại, nghe
tin nổi giận, chạy vào Gia Định quy hàng Nguyễn Phúc Ánh. Quyết trả thù, Lê
Chất nói cho Nguyễn Phúc Ánh biết hết tất cả những cơ quan bí mật và những yếu
điểm ở Thị Nại[3].
Dưới
triều Thái Đức, Quang Trung, Vua tôi tin cậy nhau, bạn bằng yêu kính nhau. Từ
trên xuống dưới, từ trong đến ngoài, đều lấy nghĩa mà đối đãi nhau. Quan văn
cũng như tướng võ, ai nấy đều lo tròn nghĩa vụ, quyền không ham, lợi không ham.
Nhờ vậy mà nước được mạnh, dân được yên. Sang triều Cảnh Thịnh, Vua tôi nghi kỵ
nhau, đình thần hãm hại nhau. Ai nấy đều lo quyền lợi riêng của mình, không
nghĩ đến quyền lợi chung của dân của nước. Khiến thế nước càng ngày càng đảo
khuynh, lòng người càng ngày càng ly tán. Do đó mà Nguyễn Phúc Ánh không tốn
bao nhiêu công phu mà lập nên sự nghiệp lớn trong một thời gian ngắn.