NGUYỄN PHÚC ÁNH XƯNG VƯƠNG
TÂY SƠN BÌNH GIA ĐỊNH
Trong
khi Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn thì ở Gia Định Nguyễn Phúc Ánh quật khởi.
Năm
Giáp Tý chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương hiệu (1744) và chia đất Gia Định ra
làm ba dinh: Trấn Biên dinh (Biên Hòa hiện nay), Phiên Trấn dinh (Vũng Sài Gòn,
Gia Định hiện nay), Long Hồ dinh (vùng Long Xuyên, Vĩnh Long hiện nay).
Nguyễn
Phúc Ánh là cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, kêu Định Vương Nguyễn Phúc Tần
bằng chú, đối với Đông Cung Nguyễn Phúc Dương là vai anh con ông bác.
Nguyễn
Phúc Ánh theo Định Vương vào Gia Định năm Giáp Ngọ (1774). Năm Tân Dậu, Tây Sơn
đánh chiếm Gia Định (1777), Định Vương và Đông Cung bị giết. Phúc Ánh chạy
thoát. Sau khi binh Tây Sơn rút về Quy Nhơn, giao thành Sài Côn cho Tổng đốc
Chu trấn thủ, thì Nguyễn Phúc Ánh tụ tập đám thủ hạ cũ của chúa Nguyễn tại Long
Xuyên, tấn cứ đất Tam Thụ (tục gọi là Ba Giồng thuộc Định Tường). Tháng giêng
năm Mậu Tuất (1778), được quân của Đỗ Thành Nhân ở Đông Sơn đến giúp, Nguyễn
Phúc Ánh bèn kéo binh đánh Phiên An. Không phòng bị thành Sài Côn bị thất thủ.
Đất Gia Định lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh được Đỗ Thành Nhân và tướng
sĩ tôn làm Đại Nguyên Súy Nhiếp Quốc Chánh. Phúc Ánh lúc bấy giờ mới mười bảy
tuổi.
Bị
mất Gia Định, Tổng Đốc Chu cùng thủ hạ chạy về Quy Nhơn. Được ít lâu, Vua Thái
Đức sai đem thủy binh vào đánh Gia Định. Tổng đốc Chu bị Đỗ Thành Nhân đánh
thua. Quân Tây Sơn tan rã. Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Văn Quân kéo quân
ra đánh Bình Thuận.
Bình
Thuận, từ khi Lý Tài làm phản, thì giao cho Trấn thủ Diên Khánh là Lê Văn Hưng
kiêm nhiệm. Do đó mà thành bị Lê Văn Quân đánh lấy được dễ dàng. Nhưng khi quân
Nguyễn thừa thắng kéo ra Diên Khánh thì bị Lê Văn Hưng chận đánh phải thối lui
vào Bình Thuận. Binh Tây Sơn truy kích, đánh cho một trận tơi bời, Lê Văn Quân
vội rút tàn quân chạy về Gia Định. Từ ấy quân Nguyễn rất sợ Lê Văn Hưng và
Nguyễn Phúc Ánh gọi Hưng là Lê Vô Địch.
Từ
ấy Bình Thuận trở ra thuộc về Tây Sơn, từ Bình Thuận trở vô thuộc về Nguyễn
Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiếm được Gia Định một mặt lo sửa sang mọi việc về
quân sự và nhân sự, một mặt sai sứ sang giao hiếu cùng Xiêm La.
Chỉ
trong vòng hai năm, Nguyễn Phúc Ánh đã có ba vạn quân thủy bộ, tám mươi thuyền
chiến hạng vừa, ba thuyền chiến lớn, hai chiếc tàu kiểu Châu Âu. Ngoài ra còn
có thêm ba chiếc tàu đồng do các sĩ quan và thủy thủ Bồ Đào Nha điều khiển. Ba
tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là Manuel tục gọi là
Mạn Hòe.
Tự
thấy mình đủ sức đối đầu cùng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn xưng Vương hiệu. Lễ
tấn phong cử hành vào cuối năm Canh Tý (1780). Đỗ Thành Nhân được phong chức
“Ngoại Hữu Phụ Chánh Thượng Tướng Công”. Tất cả tướng sĩ đều được thăng thưởng.
Binh quyền do Đỗ Thành Nhân nắm trọn, chống giữ Tây Sơn ở mặt Bắc, đánh phạt
Chân Lạp ở mặt Tây. Thành Nhân lập được nhiều công lớn, nha tướng mỗi ngày mỗi
thêm đông. Sợ Thành Nhân tiếm vị, Phúc Ánh bèn tìm cách giết chết năm Tân Sửu
(1781).
Đỗ
Thành Nhân chết rồi, Phúc Ánh không còn lo họa bên trong, liền cử binh đánh Tây
Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hòa hiện thời).
Ba
đạo quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp ở Phú Yên đánh vào, và
do Tôn Thất Dụ ở Bình Định đánh ra. Một đạo thủy quân do Tống Phước Thiêm,
Nguyễn Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia Định kéo ra chận
quân Quy Nhơn ở mặt biển.
Bình
Khang là dinh nằm giữa dinh Bình Thuận ở phía Nam và dinh Phú Yên ở phía Bắc,
dinh Bình Khang chia làm hai phủ: phủ Bình Khang ở phía Phú Yên, phủ Diên Khánh
ở phía Bình Thuận. Trấn thủ dinh Bình Khang lúc bấy giờ là Lê Văn Hưng có một
đội tượng binh thiện chiến. Phần lớn quân lực đóng ở Diên Khánh.
Bình
Thuận thuộc quyền chiếm đóng của Nguyễn Phúc Ánh.
Phú
Yên do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc trấn thủ. Chu Văn Tiếp chỉ chiếm cứ một
vùng ở Trà Lương (Tuy An).
Quân
Tôn Thất Dụ kéo ra đến Diên Khánh chưa kịp đóng quân thì bị Lê Văn Hưng cho
đoàn chiến tượng xung trận. Quân nhà Nguyễn vốn đã sợ uy thế Lê Văn Hưng, lại
còn sức hùng mãnh của chiến tượng, đều khiếp đảm, rùng rùng bỏ chạy. Quân
Nguyễn chưa đánh đã tan! Còn Chu Văn Tiếp kéo quân ra chưa khỏi Phú Yên đã bị
Nguyễn Văn Lộc chặn đánh tơi bời. Binh bị giết gần hết, một mình Tiếp tẩu
thoát, chạy về trốn ở Trà Lương. Trong tình hình nguy ngập của bộ binh, thì
thủy binh của Tống Phước Thiêm lại không rời khỏi Gia Định được. Bởi bộ hạ của
Đỗ Thành Nhân ở Ba Giồng nổi loạn.
Không
thể để yên cho Phúc Ánh phát triển lực lượng và chiếm giữ lâu dài đất gia Định,
Vua Thái Đức lo việc chinh Nam.
Tháng
3 năm Nhâm Dần (1782), nhà vua cùng Nguyễn Huệ, Phạm Ngạn đem 200 chiến thuyền
vào Gia Định. Binh đi thẳng vào cửa biển Cần Giờ.
Được
tin Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đem thủy quân ra chận đánh.
Đạo thủy quân của nhà Nguyễn gồm trên 400 chiếc thuyền, lại có một số tàu đồng
của Pháp và Bồ Đào Nha tham dự.
Tống
Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng tại sông Thất Kỳ tức ngã Bảy, quyết
tiêu diệt binh Tây Sơn. Hai bên kịch chiến. Bên ngoài có súng trường và đại bác
bắn rền trời. Thuyền Tây Sơn anh dũng xông vào bám sát thuyền địch, dùng pháo
lửa (fusée)[1] ném
sang vùn vụt. Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu của Pháp do Mạn Hòa chỉ huy,
có 10 khẩu đại bác, bị hãm không sao ra khỏi vòng vây, cố sức chống cự cuối
cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòa tử trận. Thuyền của nhà Nguyễn không
thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!
Một
đội thuyền do Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy đến cứu cũng bị hỏa lực đánh
tan, Phúc Ánh vội rút tàn quân chạy về Bến Nghé. Binh Tây Sơn lớp đuổi theo
Phúc Ánh, lớp kéo lên đánh chiếm Thị Nghè, Gia Định. Phúc Ánh phải chạy trốn về
Ba Giồng, theo phò vừa tướng vừa quân chỉ trên dưới 300 người; nhưng chưa ở yên
thì bị binh Tây Sơn kéo đến đánh, phải chạy hết từ chỗ này đến chỗ khác từ Gia
Định đến Hậu Giang.
Quân
Nguyễn ở Bình Thuận nghe tin Gia Định thất thủ liền tiến về cứu viện. Nhưng vừa
đến Biên Hòa thì Tôn Thất Dụ bị tướng Tây Sơn là Phạm Ngạn chận đánh, quân
Nguyễn Phải thối lui. Vừa lúc đó Châu Văn Tiếp kéo quân ở Phú Yên vào tiếp ứng.
Phạm Ngạn đương đuổi theo quân Nguyễn, giết được một viên tướng Nguyễn là Hồ
Công Siêu, thì bị Châu Văn Tiếp tiếp chiến thình lình trở tay không kịp liền bị
giết. Quân Tây Sơn không dám đuổi tiếp. Tôn Thất Dụ cùng Châu Văn Tiếp rút ra
Bình Thuận.
Nguyễn
Phúc Ánh ở Hậu Giang nghe tin quân mình thất bại khắp mọi nơi, liệu không đủ
sức đối phó với Tây Sơn, bèn sai Nguyễn Hữu Thụy cùng 150 người tùy tùng sang
Xiêm cầu viện, còn mình thì chạy đến Hà Tiên cùng Lê Văn Duyệt và một số quan
tòng vong chạy ra Phú Quốc.
Thế
là đất Gia Định được bình định. Bộ tường của Đỗ Thành Nhân kéo binh từ Đông Sơn
đến hàng. Vua Thái Đức thu nạp và trọng dụng.
Tháng
5 năm Nhâm Dần (1782) tình hình Gia Định đã tương đối ổn định, Vua Thái Đức
cùng Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn. Đất Gia Định giao cho Đỗ Nhàn Trập và Hộ
Bộ Bá trấn thủ.
Vua
Thái Đức cùng Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn chưa được bao lâu thì ở gia Định
một cựu tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Hồ Văn Lân tập hợp một số tàn quân của nhà
Nguyễn còn lẩn lút ở miền Hậu Giang, nổi lên đánh chiếm dinh Long Hồ. Một số
tướng khác như Dương Công Trừng, Nguyễn Văn Quý cũng đem tàn quân hợp với Hồ
Văn Lân đánh úp thủy quân Tây Sơn ở Lật Giang. Trong khi bọn Hồ Văn Lân hoạt
động ở Gia Định thì ở Phú Yên Châu Văn Tiếp cũng mộ quân kéo vào giúp rập.
Đỗ
Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá chỉ có 3.000 quân trong tay, phải chia ra chống đỡ các
mặt. Thành Gia Định bị yếu thế không trì thủ được lâu. Đỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá
phải bỏ chạy về Quy Nhơn.
Lấy
lại được Gia Định, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người ra Phú Quốc rước Nguyễn
Phúc Ánh trở về.
Đầu
năm Quý Mão (1783) Vua Thái Đức sai Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng,
Trương Văn Đa cử đại binh vào đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Biết
trước thế nào Vua Tây Sơn cũng đem quân vào đánh, Nguyễn Phúc Ánh lo phòng bị
cẩn mật. Một mặt sai Lê Phúc Diễn, Lê Phúc Bình đem vàng bạc sang Xiêm La, cầu
xin Vua Xiêm cứu viện khi Gia Định bị Tây Sơn tấn công. Một mặt lo tăng cường
phòng thủ thành Gia Định: đồn Bến Nghé ở phía nam thành và đồn Thị Nghè ở phía
bắc thành là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu. Đồn Bến Nghé là bình phong
của thành. Đồn Thị Nghè nằm trên ngã ba sông Thị Nghè, có thể khống chế mấy ngã
sông Thị Nghè và sông Gia Định, do đó đủ sức che chở cho thành một cách vững
vàng kín đáo. Hai đồn này được tu bổ nghiêm túc. Hai đồn mới được xây đắp: đồn
Thảo Câu ở phía nam thành, trên sông Vàm Cỏ Đông; đồn Dác Ngư ở phía bắc thành,
trên sông Gia Định. Đồn nào cũng có tướng sĩ canh giữ nghiêm ngặt. Đồng thời
Nguyễn Phúc Ánh cho khôi phục thủy quân, đóng chiến thuyền. Trên khúc sông rộng
ở hạ lưu Gia Định giang có đóng nọc ngầm và hai bên sông có hàng nghìn bè tre
chất đầy củi khô và thuốc súng sẵn sàng đánh hỏa công. Một toán chiến thuyền
trên 100 chiếc trang bị đầy đủ dàn sẵn trên sông Gia Định.
Việc
phòng bị lần này nghiêm chỉnh hơn lần trước thập bội.
Thủy
binh Tây Sơn đến cửa Cần Giờ ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão (1783).
Nắm
vững tình hình của địch. Nguyễn Huệ đợi lúc thủy triều dâng, gió từ cửa biển
thổi mạnh vào đất mới đốc suất chiến thuyền vào cửa sông.
Châu
Văn Tiếp chỉ huy chiến thuyền Nguyễn kéo binh ra chống cự. Tiếp đã bố trí chiến
trường, quyết dùng hỏa công tiêu diệt thuyền địch, ít ra cũng đẩy lui địch
không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội rút lui. Biết
rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn hô quân tiến đánh.
Khi
chiến thuyền Nguyễn đã qua khỏi khúc sông bố trí đánh hỏa công và thuyền Tây
Sơn đã lâm vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và cắt dây neo để cho
trôi xuống thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên mạnh và gió biển theo
nước triều thổi mạnh, bè lửa trôi ngược trở lên và lửa đốt cháy thuyền Nguyễn.
Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo càng gấp, Châu
Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi chạy sang
Xiêm. Thủy binh của Phúc Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ chia quân đến
đánh hai đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất Mãn bị Lê
Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị Trương Văn
Đa bắt sống. Nguyễn Huệ kéo quân đánh thành Gia Định. Nguyễn Phúc Ánh hốt
hoảng, bỏ thành đem gia đình chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng và
chừng trăm quân chạy theo. Tướng sĩ ở Bến Nghé và Thị Nghè cũng bỏ đồn chạy.
Nguyễn
Huệ kéo quân vào thành, phủ dụ nhân dân và tướng sĩ còn ở lại.
Chạy
về Ba Giồng, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức lại quân đội.
Đầu
tháng 4 năm Quý Mão (1783) cất quân đánh Tây Sơn.
Quân
hai bên gặp nhau ở Đồng Tuyên (Kiến An, Định Tường). Quân nhà Nguyễn vừa thấy
quân Tây Sơn hùng hổ kéo đến thì đã muốn bỏ chạy. Do đó mới vừa giáp chiến thì
binh liền tan rã, tướng phần nhiều bị giết. Nguyễn Văn Quý bị Trương Văn Đa
chém trên mình ngựa. Nguyễn Huỳnh Đức bị Lê Văn Hưng bắt sống. Quân sĩ bị bắt
sống trên nghìn người. Quân Nguyễn bị tiêu diệt toàn bộ.
Nguyễn
Phúc Ánh tẩu thoát, chạy đến Lật Giang, chạy sang Mỹ Tho, rồi chạy đến Ba Thắc,
cuối cùng chạy đến Hà Tiên để xuống thuyền ra Phú Quốc.
Về
việc chạy trốn của Nguyễn Phúc Ánh, sử nhà Nguyễn chép:
“Vương
chạy đến Lật Giang thì trên sông tuyệt không có đò sang ngang. Ngài bỗng thấy
một con trâu nằm ngay nơi mé tả, Ngài bèn cỡi lên lưng trâu để qua sông. Nhưng
khi đến giữa dòng thì nước rút quá mạnh, trâu không bơi được. May một con cá
voi nổi lên há miệng ngậm lấy Ngài đưa sang bờ bên kia. Nhờ vậy mà ngụy quân
không nhận được vết tích để truy tìm. Tới xứ Vịnh Cù, Ngài gặp Thái giám Duyệt
đem theo ấn nhỏ bằng vàng cùng các quan tòng vong. Mọi người xuống thuyền tới cửa
Kinh Hào (Long Xuyên) rồi sang thuyền đi Phú Quốc...” (Nguyễn Triều Long Hưng
sự tích).
Được
tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai Phan Tiến Thận đi đánh
bắt. Một số tướng lãnh bị bắt sống. Nguyễn Phúc Ánh thoát chết chạy ra đảo Cổ
Long (KohRong). Trương Văn Đa đem một lực lượng thủy quân lớn đến vây đánh.
Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra để bao vây mà phải dồn
lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh có cơ hội
đem tàn quân chạy thoát, trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut) rồi chạy về Phú Quốc.
Đất
Gia Định đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã được tổ chức nghiêm
mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ và Lê
Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Đa cùng một số tướng sĩ ở lại giữ
thành Gia Định.
Nguyên
trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương Văn Hiến tâu cùng Vua Thái Đức:
-
Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan, nên
không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà
Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không
phải để giải phóng họ. Bởi vậy hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong
nhất thời. Rồi ai được ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó quân ta cứ lấy được
Gia Định rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm
cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.
Do
đó Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Đa, một người văn võ toàn tài, ở lại trấn thủ
Gia Định. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái Đức sai thêm hai văn
thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Đình Tiệp vào trợ lực.
Họ
Cao họ Triệu vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai ông giả làm thầy địa
lý và thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận thấy miền Nam hầu
hết đều chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của thánh hiền, chữ
Trung của Hán Nho, Tống Nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối với nhà Nguyễn
tuy không sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với nhà Lê, song có tài chinh
phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn thu phục nhân
tâm miền Nam, thì phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn hơn nhà Nguyễn về mọi
mặt.
Trước
hết phải có một chính sách tốt.
Chính
sách đã có sẵn từ nghìn xưa. Chẳng qua tám chữ “Thân Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi
Dân”. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy.
Trong
khi ở Gia Định nhà Tây Sơn lo việc an dân thì ở Phú Quốc Nguyễn Phúc Ánh lo cầu
cạnh nước ngoài cứu viện để đánh cướp đất.
Nguyên
Nguyễn Phúc Ánh có quen cùng hai giáo sĩ Cơ Đốc Tây Phương là Linh mục Ly-ô
(Liot), người Bồ Đào Nha, và Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhiane
Evêque d’Adran), người Pháp, trước kia truyền giáo ở Gia Định, sau chạy sang
Săn Ta Buôn (Chantabuon) ở Xiêm La lập giáo sở. Phúc Ánh bắt liên lạc cùng hai
nhà truyền giáo ấy, nhờ Linh mục Bồ Đào Nha mua lương thực và Giám mục Bá Đa
Lộc sang cầu viện nước Pháp. Phúc Ánh hứa bằng giấy tờ, sẽ cắt đất nhượng cho
nước Pháp, và để cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở Việt Nam sau khi
chiến thắng. Con trai đầu của Phúc Ánh là Hoàng Tử Cảnh theo Bá Đa Lộc làm con
tin.
Giám
mục chưa kịp xuống tàu sang Pháp thì Phúc Ánh được mật thư của Châu Văn Tiếp
mời sang Vọng Các (Bangkok) hội kiến cùng Vua Xiêm.
Nguyễn
Phúc Ánh sang Xiêm vào khoảng tháng giêng năm Giáp Thìn (1784).
Vua
Xiêm tiếp đãi nồng hậu.
Nước
Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri) đương lúc thịnh vượng và
đang nuôi tham vọng nuốt Chân Lạpvà Gia Định để mở rộng cõi bờ. Được Nguyễn
Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Để
chuẩn bị cuộc xâm lăng, Vua Xiêm giúp Phúc Ánh tổ chức một đạo binh gồm đám tàn
quân và bọn người Việt lưu vong trên dưới nghìn người do Châu Văn Tiếp làm Đại
Đô Đốc và Mạc Tử Sinh làm Tham Tướng.
Mùa
hạ năm Giáp Thìn (1784), Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu
Sương làm tiên phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp
cùng đạo quân của Phúc Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia Định. Đồng thời nhà
vua lại phái hai tướng là Lục Côn và Sa Uyển cùng với Chiêu Thùy Biện, một cựu
thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo binh trên 3 vạn người, tiến sang Chân Lạp
rồi từ đó kéo xuống Gia Định phối hợp cùng thủy binh của Chiêu Tăng và Chiêu
Sương.
Châu
Văn Tiếp đã thuộc được lối và biết rõ các nơi hiểm yếu ở Gia Định, nên dẫn quân
đi trước.
Thủy
quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá.
Bộ
binh Xiêm đánh xuống Châu Đốc.
Để
phòng ngự mặt biển và mặt sông, thời chúa Nguyễn, Nguyễn Cư Trinh đã lập ra 5
đạo là Tân Châu Đạo ở Cù Lao Giêng thuộc Tiền Giang, Châu Đốc Đạo ở Hậu Giang
sát biên giới Chân Lạp, Đông Khấu Đạo ở Sa Đéc, Kiên Giang Đạo ở Rạch Giá và An
Xuyên Đạo ở Cà Mau.
Quân
Xiêm kéo vào Gia Định một cách rầm rộ.
Trấn
thủ Gia Định là Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho các nơi vừa
chận đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.
Quân
Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Đốc ở biên cương rút về Cần
Thơ. Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba
Thắc.
Ba
Thắc (Srok Pra-sak) là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc Trăng, Bạc Liêu... Dân cư
phần đông là người Cao Miên. Đất đai phần lớn là rừng và bưng biền nước ngập.
Quân
Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho một trận tơi bời phải
thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu Giang sang Trà Ôn để rồi lui về
Đông Khấu Đạo ở Sa Đéc. Quân đóng ở An Xuyên Đạo (Cà Mau) bị cô thế cũng rút về
Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Man Thiếc (Mânthít) thuộc Vĩnh Long thì
gặp đạo quân của Trương Văn Đa từ Sa Đéc kéo xuống đánh kịch liệt. Châu Văn
Tiếp bị Trương Văn Đa chém chết. Quân giặc rút lui xuống Trà Cú. Nhưng Trương
Văn Đa liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất miền Tây về phía hữu ngạn
sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.
Vì
mất người hướng đạo là Châu Văn Tiếp, giặc không dám sang sông, lấy Đông Khấu
Đạo ở Sa Đéc làm Tổng Hành dinh.
Sau
trận kịch chiến ở Man Thiếc vào khoảng trung tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (tháng
11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng 11 năm Giáp Thìn (tháng
12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Định Tường và Vĩnh Long. Chỉ huy trận này là
Đặng Văn Lương, người Định Tường, theo Phúc Ánh làm tới chức Chưởng Cơ và Lê
Văn Quân cũng người Định Tường, theo Phúc Ánh làm đến chức Đô Đốc. Đô Đốc lên
thay Châu Văn Tiếp làm Tổng Nhung. Họ Đặng và họ Lê cậy mình là người địa
phương thông thạo đường lối, đương tính đem quân đánh úp quân Tây Sơn. Chẳng
ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi quân nguyễn vào
đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất mạnh, quân Nguyễn
không chống nổi bị giết gần hết. Đặng Văn Lương bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn
Kim chém chết. Lê Văn Quân bị Lê Văn Kế đánh trọng thương, chạy thóat nhưng
phẫn uất mà tự sát.
Từ
đó quân Xiêm - Nguyễn đóng yên một chỗ.
Trương
Văn Đa với số quân không quá 10 nghìn, phải tận lực giữ vững nửa phần đất còn
lại ở phía Đông từ Tiền Giang trở ra. Vùng đất phía Tây từ Tiền Giang, Hậu
giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm - Nguyễn.
Chiếm
được nửa phần đất Gia Định, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu căng. Chúng xem thường
quân Tây Sơn, khinh mạn Phúc Ánh, không lo chiến đấu mà chỉ lo tìm cách cướp
bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam tỏ thái độ hay có
hành động chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm không biết bao
nhiêu con gái, vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán. Hành động bạo
ngược của quân giặc đào sâu lòng căm thù của toàn dân miền Tây và cả miền Đông
Gia Định, căm thù cả Xiêm lẫn Nguyễn kẻ rước giặc về phá quê hương, và hết lòng
ủng hộ tướng sĩ Tây Sơn.
Nhờ
lòng dân ủng hộ mà Trương Văn Đa với một số quân ít ỏi có thể chặn đứng được
bước tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được mãi. Cuối năm 1784
Trương Văn Đa sai Đô Uy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia
Định.
Nghe
qua lời tấu của Đô úy Đặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn biết rằng lực lượng của
giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Đức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn
Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Bùi Thị Xuân xin
tòng chinh.
Binh
Tây Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11 năm Giáp Thìn (tức khoảng
đầu năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi,
còn có Đô úy Đặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.
BẢN ĐỒ TRẬN ĐỊA TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM
Thủy
binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu để lên Gia Định như mấy
lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang kéo đến Mỹ Tho. Chủ lực
của Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy đóng tại Mỹ Tho.
Nguyễn
Huệ sai Trương Văn Đa ra giữ thành Gia Định, còn mình thì đóng quân tại Mỹ Tho
quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Trước
hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế, và cho người do thám tình
hình của địch.
Mỹ
Tho lúc bấy giờ gọi là Trường Đồn, đất đai phì nhiêu, rừng núi hiểm trở, sông
ngòi lưu thôn. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có hai cửa tả hữu, hào
rộng 4 trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào, ngoài hào còn có lũy
che chở. Trước mặt đồn có sông Đại Giang gọi là sông Mỹ Tho, một chi lưu của
sông Tiền Giang. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo thủy triều mà lên
xuống, rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một cánh rừng rộng
làm hào thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục gọi là Rừng
Dừa.
Địa
thế khá hiểm trở.
Trên
sông Đại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu vừa rộng vừa dài. Đó là
nhờ nước sông Sầm Giang tục gọi là Rạch Gầm và sông Hiệp Đức tục gọi là Rạch
Cái La hay Rạch Xoài Mút chảy vào tăng lưu lượng cho nước sông Tiền Giang. Từ
Rạch Gầm đến Xoài Mút dông dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và rộng gần cả dặm (1
cây số). Thủy triều lên thì tràn đầy, khi xuống vẫn không cạn. Giữa sông có một
gò đất bồi chu vi khoảng 5 dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và một cù lao nhỏ gọi là
cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai bên bờ sông và trên cù lao lau lách và cây bần mọc
um tùm và không có vết chân người qua lại.
Nguyễn
Huệ dùng khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút và Rừng Dừa làm trận địa để diệt quân
thù. Vì quân Xiêm - Nguyễn tập trung toàn bộ lực lượng, cả thủy quân tại đạo
Đông Khấu ở Sa Đéc, lực lượng quá lớn (300 chiến thuyền và 5 vạn thủy lục quân),
không thể nào đánh thẳng vào đại doanh của địch với số quân không đầy một nửa.
Nguyễn Huệ phải dụ địch ra ngoài nơi có lợi thế cho mình. Nguyễn Huệ cho thủy
binh mai phục trong các nhánh sông Rạch Gầm, Xoài Mút và trong các con sông nhỏ
chảy quanh các cù lao. Còn bộ binh thì một đạo mai phục ở hai bên bờ sông và
trên cù lao Thới, trên bãi Tôn, một đội mai phục nơi Rừng Dừa. Thủy binh do
Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng Trần Quang Diệu điều
khiển.
Vạn
sự cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu chiến. Đó là chiều ngày
mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm 1785.
Quân
Xiêm - Nguyễn khi được tin binh Tây Sơn kéo đến Mỹ Tho thì liền chuẩn bị sẵn
sàng để đối phó. Nhưng do chưa biết được rõ lực lượng của địch mạnh yếu thế nào
nên chưa tấn công. Bị khiêu chiến, Chiêu Tăng liền cắt Sạ Uyển cùng một vạn bộ
binh ở lại giữ đại bản doanh và các nơi hiểm yếu, còn mình thống lãnh đạo thủy
lục quân đi đánh Tây Sơn.
Bộ
binh do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Tiền Giang đi xuống.
Thủy
binh do Chiêu Sương làm tiên phong kéo thẳng xuống sông Mỹ Tho.
Hai
đạo thủy bộ đều có tướng sĩ của Nguyễn Phúc Ánh dẫn đường, hẹn nhau sau khi
chiến thắng Mỹ Tho thì đồng kéo nhau ra đánh thành Gia Định.
Trời
tháng chạp quang đãng. Trăng thượng huyền treo cao.
Quân
giặc kéo đi rầm rộ. Nhưng không thể tiến nhanh, vì trên bờ lau lách, dưới sông
thì nước triều đương dâng.
Võ
Văn Dũng vừa đánh vừa lui.
Đến
giang đầu sông Mỹ Tho thì trời bắt đầu tối. Đèn được treo trên thuyền đôi bên
thắp sáng rực trời. Thuyền Tây Sơn núp trong Rạch Gầm kéo ra hợp lực cùng
thuyền Võ Văn Dũng chặn không cho thuyền giặc tiến. Đợi khi trăng sắp lặn, thủy
triều sắp rút thì Võ Văn Dũng trá bại. Thuyền giặc ra sức đuổi theo. Đến Rạch
Gầm, một phần lớn thuyền Tây Sơn tắt hết đèn đuốc, trẽ vào rạch, còn phần nhỏ
thì chạy thẳng theo dòng sông Mỹ Tho. Thuyền giặc cứ trông theo ánh sáng mà
đuổi. Khi thuyền giặc đã lọt trọn vào trận địa, thì một tiếng pháo lệnh nổ
vang. Thuyền của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy từ rạch Xoài Mút và các sông nhỏ
kéo ra chặn đánh. Đồng thời súng đại bác trên cù lao Thới Sơn và hai bên bờ
sông nã liên thanh vào thuyền giặc. Bị đánh thình lình; Chiêu Sương hoảng hốt
cho dừng thuyền lại. Thuyền trước dừng lại một cách đột ngột, những đoàn thuyền
đi sau đương đà tiến nhanh theo nước triều rút, không sao hãm kịp, bị va vào
nhau, hết lớp này đến lớp khác. Đoàn thuyền đi sau rốt vừa quay trở lại thì bị
thuyền ở Rạch Gầm kéo ra đánh thối lui vào trận địa.
Phần
bị trước chặn đánh, sau đuổi đánh, phần bị hai bên hông và trên đầu đại bác nã,
phần thuyền va vào nhau, hàng ngũ rối loạn, hết phương day trở, hết phương
chống đỡ, thuyền địch lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm không còn một chiếc. Quân
sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giết chết, trăm phần không còn được
một, hai. Thế là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm và một số quân
của Phúc Ánh bị hoàn toàn tiêu diệt.
Còn
đạo bộ binh của giặc đương đi bỗng nghe tiếng đại bác nổ, liền dừng bước. Thình
lình trong lau lách phục binh của Tây Sơn vừa hét vừa xông ra. Lục Côn trở tay
không kịp, bị Bùi Thị Xuân chém một nhát bay đầu[2]. Binh lính hết hồn, đều bỏ
chạy tán loạn. Nhưng sau lưng có quân đánh, hai bên tả hữu cũng có quân đánh,
chúng ùa nhau chạy về phía trước, nhảy ào vào rừng dừa. Hai vạn binh Xiêm và số
quân nhà Nguyễn, lớp bị đao kiếm, lớp bị sình lầy, chết không còn một mống!
Trời
vừa rạng đông thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Quân Tây Sơn toàn thắng, Chiêu Tăng
và Chiêu Sương tẩu thoát. Nguyễn Phúc Ánh được một bộ tướng là Nguyễn Văn trị
cứu khỏi và cõng chạy đến trốn nơi Mỹ Đức ở Thi Giang, rồi chạy lần ra náu ở
Cồn Khơi thuộc Hà Tiên.
Tướng
Xiêm Chiêu Tăng và Chiêu Sương[3] trốn
thoát chạy về Sa Đéc, bị quân Tây Sơn truy kích, hối hả cùng Sạ Uyển kéo tàn
quân chạy bộ về Xiêm. Kiểm điểm quân số thì khi xuất quân, thủy bộ cả thảy 5
vạn, lúc trở về chỉ còn mươi ngàn lục quân và không đầy vài ngàn thủy quân! Như
vậy chỉ trong một trận Tây Sơn tiêu diệt gần 4 vạn quân Xiêm và 300 thuyền
chiến.
Còn
Nguyễn Phúc Ánh hết trốn nơi này đến nơi khác, liệu không thoát khỏi tay đối
phương luôn luôn cho lùng bắt, bèn cùng một số tướng sĩ chạy qua Xiêm xin tị
nạn[4].
Quét
sạch quân xâm lăng, đuổi được Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi nước, Nguyễn Huệ lo sắp
đặt tề chỉnh việc quân việc dân, rồi giao Gia Định cho Trương Văn Đa và Đặng
Văn Chấn trấn thủ, còn mình cùng Võ Văn Dũng và vợ chồng Bùi Thị Xuân kéo đại
binh về Quy Nhơn.
Cao
Tắc Tựu và Triệu Đình Tiếp bàn cùng nhau:
+
Cuộc chiến thắng này đã làm sáng tỏ chính nghĩa của nhà Tây Sơn. Cái tội “rước
voi” của Nguyễn Phúc Ánh đã sờ sờ ra đó, và có công giải thoát ách ngoại xâm
của Long Nhương Tướng quân đã đủ trang bị cho chúng ta để chinh phục nhân tâm
của sĩ phu và lê thứ đất Gia Định.
+
Phần đông sĩ phu Gia Định hiểu nghĩa chữ trung một cách lệch lạc. Họ chỉ nghĩ
đến Vua, cho rằng “trung quân tức ái quốc”. Cho nên cứ khư khư ôm chữ trung
quân vào lòng, mặc dù Vua kia, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của mình mà dẫm đạp
lên trên quyền lợi chung của Tổ quốc và Dân tộc. Họ nghĩ rằng đất này là của
nhà Nguyễn bị nhà Tây Sơn chiếm đoạt, thì Nguyễn Phúc Ánh có quyền nhờ ngoại
bang giúp mình đánh lấy lại. Phá nước hại dân là tội của quân Xiêm, chớ không
phải tội của Phúc Ánh. Cho nên họ không oán giận họ Nguyễn mà chỉ căm thù quân
Xiêm. Phải đả phá cho được tư tưởng sai lầm đó, thì lời nói phải của chúng ta
mới lọt được vào tai.
+
Đất Gia Định rộng mênh mông mà chỉ có hai chúng ta thì không thể nào dẫy hết cỏ
dại đã ăn sâu vào trí não, để cấy lúa trồng dâu.
Hai
ông liền bàn cùng Trương Văn Đa và Đặng Văn Chấn rồi một mặt làm sớ gởi về Quy
Nhơn xin thêm người, một mặt chiêu nạp nhân tài ở địa phương làm phụ tá.
Vua
Thái Đức liền sai Huỳnh Văn Thuận và Lưu Quốc Hưng vào tăng cường.
Từ
ấy đồng bào Gia Định được an cư lạc nghiệp.
Việc
học hành được tổ chức khắp nơi. Ruộng đất mỗi ngày mỗi thêm mở rộng. Quân sĩ
thay phiên nhau làm việc canh tác với đồng bào. Gia Định trở thành nơi trù phú.
[1]Đích danh là Hỏa hổ lớn bằng cổ tay, làm bằng đèn khối, rất
nhạy lửa, nước tưới không tắt, chỉ đất bùn mới dập tắt.
[2] Nghe truyền rằng viên tướng Xiêm thấy Bùi nữ tướng đường
kiếm tuyệt luân, sắc đẹp lại tuyệt mỹ, đứng ngó sững sờ nên bị nữ tướng chém
không đỡ kịp. Đầu giặc bay xa đến mấy dặm và bị rơi dính trên cây cao.
[3] Các sách Quốc ngữ đều chép là Chiêu Sương và giải thích
rằng Chiêu là một chức quan. Nhưng sách Nguyễn triều long hưng sự tích lại chép
là Triệu Tăng và gọi là Thế Tử.
[4] Các sách Quốc ngữ đều chép rằng trong số tướng tá chạy theo
Nguyễn Phúc Ánh có Lê Văn Quân. Song nghe truyền Quân bị thua trận Ba hai xấu
hổ tự sát. Lời truyền phù hợp với lời ghi trong Đại Nam Nhất Thống chí nơi mục
sông ngòi và mục nhân vật.