CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC NƯỚC NON BÌNH ĐỊNH
Văn nhân thi sĩ nào thì cũng
thích nhắc đến quê hương của mình và nhà nào cũng đã tả hay vịnh ít nhất là một
vài cảnh quê hương của mình; nhưng ghi chép kỹ lưỡng để thành một cuốn địa
phương chí thời lại rất ít người làm, mặc dầu biết rằng hễ viết thì rất được
độc giả hoan nghênh vì đọc những tác phẩm đó, độc giả có cái thú như lại tận Mỹ
Thanh (Bạc Liêu) mà nếm nhãn, tận Tân Châu (Châu Đốc) mà lựa hàng vậy, chúng ta
hận rằng sao Tản Đà không viết về Hải Dương, về Hà Tĩnh. Loại ấy đâu khó viết,
nhất định là không khó bằng làm một tập thơ, nó mất công thật nhưng thiếu gì bộ
biên khảo còn tốn công hơn nó. Vậy thì tại sao các danh sĩ lại ít viết?
Suy đi nghĩ lại, tôi cho có lẽ là
tại hồi nhỏ, nỗi cầm bút còn sung túc, ít ai nghĩ đến cái việc ấy - Trừ thi sĩ
Đông Hồ, một là vì cho quê hương của mình quen quá rồi, không có gì đáng nói,
hai là vì mải làm thơ, viết tiểu thuyết, soạn kịch... để mau nổi danh, còn cái
việc viết địa phương chí thì (lúc nào làm mà chả được); rồi tới khi lớn tuổi,
muốn làm thì không làm được nữa, hoặc vì bận nhiều việc hoặc vì phải xa quê
hương, hoặc vì sức yếu không thăm lại được cảnh cũ để mà tìm tòi, điều tra, ghi
chép. Vì vậy mà trong bốn năm chục năm nay, số danh sĩ trong nước có cả trăm mà
chỉ có hai nhà cho chúng ta cái thú được đọc về quê hương của họ: Thi sĩ Đông
Hồ về Hà Tiên và Thi sĩ Quách Tấn về Bình Định.
Tôi đã chờ mong “Nước Non Bình
Định” từ hai năm trước khi đọc mấy hàng quảng cáo không nhớ tên một ấn phẩm nào
đó, cho nên trong biến cố đầu xuân vừa rồi, tôi vội đi ba lần mới kiếm được đem
về đọc trong những giờ giới nghiêm. Sách đã thú mà đọc trong giờ giới nghiêm
còn thú hơn. Dưới đây tôi xin ghi chút cảm tưởng để giới thịêu với độc giả chứ
không dám phê bình: tôi có biết chút gì về quê hương của Thi sĩ Quách Tấn đâu
mà phê bình.
Cái thú thứ nhất, tôi, như trên
đã nói, là được lại tại vườn Mỹ Thanh mà nếm nhãn, vì thi sĩ gia đình chín đời
ở ấp Tây Sơn Hạ (nay là Bình Khê), trong nhà trước kia có hai bộ sử chép tay về
nhà Tây Sơn và khởi thảo cuốn “Nước Non Bình Định” này từ năm 1958, đến năm
1964 mới hoàn thành.
Cái thú thứ nhì là được thi sĩ
dắt từng bước dạo gần hết những cảnh Nước Non Bình Định. Hai chương Địa lý và
Thắng cảnh cổ tích chiếm 350 trang trên hai phần ba cuốn sách. Đặc biệt là mục
(2) Núi non viết rất kỹ: trong tám chục trang, tác giả đã có tới trên trăm ngọn
hình dáng rất kỳ dị, như ngọn Mạ Thiên Sơn đứng phía này thì ngó rất ngạo nghễ,
hung tợn, như há miệng mắng trời, nhưng đứng phía khác thì trông lại rất hiền
từ (lễ độ), có phía coi như ông Phật ngồi, có phía lại như con hổ nằm, mà từ
trên cao nhìn xuống thì lại giống một cánh buồm! (Trang 100)
Có núi hình không kỳ dị, mà sắc
thì diễm ảo, như núi Xương Cá (... những buổi trưa nắng gắt ở xa trông vào thấy
sát khí bốc lên ngùn ngụt). Còn những đêm trăng sáng, những buổi sớm tinh sương
thì long lanh lóng lánh như kim cương (Trang 104).
Cảnh bờ biển và cửa biển tác giả
tả ít hơn. Tôi vốn ưa cảnh biển, vẫn mơ ước được ai quay phim cho coi hết cả bờ
biển Trung Việt, nên được 18 trang của ông vẫn còn thấy thèm, chưa gặp cảnh nào
đã làm cho tôi mê hồn như ở Phú Yên.
Những cảnh hầm, vực và giếng ở
Bình Định thì dưới ngọn bút của thi nhân, sao mà giống cảnh tiên thế! Xin độc
giả đọc đoạn tả những cổ thụ, lùm sim, phong lan, rừng ngâu ở Hầm Hô (trang
314), và cảnh giếng tiên (trang 329) xem có thoát khỏi mơ mộng được không?
Cảnh Chùa Linh Phong, cũng gây
cho tôi một ấn tượng thú vị vì cảnh đã đẹp mà văn ông lại du dương. Tôi xin
trích lại dưới đây mặc dầu là đoạn khá dài:
"Xa tít tận chân trời, đồng lúa bát ngát bao trùm hai mặt Tây và Nam.
Lúa non trải sắc xanh mươn mướt, lúa chín trải màu vàng hươm, thoảng ngọn gió
đưa, lúa vờn sóng lụa và hết đây lại có đàn cò điểm những điểm trắng rung rinh.
Lẫn trong màu sắc của đồng ruộng mênh mông từng chòm từng khoảng nổi lên màu
lục đậm của cây, màu xanh xám hoặc đo đỏ của chợ quấn, nhà cửa, chùa đền,...,
ẩn hiện dưới bóng cây làn khói.
Nhìn về
phía Đông thì điểm xanh lênh láng. Phía Đông Nam thì đầm Thị Nại long lanh, và
rừng dương liễu chạy từ cách Thử đến gò Bồi quãng dày quãng thưa, chập chờn
trên bãi cát nửa vàng, nửa trắng. Xa xa thành phố Qui Nhơn thấp thoáng trong sương sóng nửa tỏ, nửa
mờ, khi ẩn, khi hiện. Và gió biển thổi vào rừng dương liễu dưới bãi, thổi vào
rừng cổ thụ trên non, tiếng nghe rào rào lẫn lộn cùng tiếng sóng vỗ nơi gành xa
bãi vắng".
(Trang 267).
Đó, cảnh Bình Định như vậy. Tôi
tiếc rằng không có một bản đồ tỉ lệ 1 - 25.000 hoặc ít nhất cũng là 1/100.000
để dò từng nơi những chỗ tác giả đã tả.
Trong khi dắt ta thăm cảnh, tác
giả kể có đến mấy chục cố sự. Đây là cái thú thứ ba khi tới đâu ta cũng gặp
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Mai Xuân
Thưởng,... và cả hai tên Việt gian Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc.
Đây là chỗ Tây Sơn tế cờ, kia là
chỗ chém “tướng” (y như Lưu Bang vậy); Mai Xuân Thưởng máu xối ướt cả chiến
bào, ngất trên mình ngựa ở nơi này; Nguyễn Ánh khấn trời mà tìm được nước ngọt
ở chỗ kia (cái ông Nguyễn Ánh này thật đa sự đi đâu cũng reo rắc những chuyện
nước ngọt đến đó). Đồng Sơn, nơi Nguyễn Thân sai chặt đầu mấy trăm nghĩa binh
treo hai bên đường, còn xác thì đem phơi trên bãi rác; Bàu Sáu nơi có trận thủy
bối, nghĩa quân hết lớp này đến lớp khác xông ra, dùng đao cung chống với súng
trường và trọng pháo. Rồi những cổ tích về thành Đồ Bàn, thành Bình Định, về
trường thi, về chùa Thập Tháp, ngôi chùa tổ của phái Lâm Tế Trung Việt. Chỗ nào
ta cũng thấy phảng phất hình ảnh của người xưa, văng vẳng tiếng nói của người
xưa.
Ngoài những truyền thuyết "khó
tin rằng có, khó ngờ rằng không" và những truyện "nói không có sách
nhưng mách có chứng", tác giả cũng chép lại cho câu chuyện thêm vui: năm
sự tích chàng Lía, sự tích bà cố Hỷ, sự tích cha Hồ chú Nhẫn; nực cười nhất là
sự tích ông Khổng Lồ gánh núi đi chơi, cao hứng nhìn nước nhìn mây mà để núi
lăn cù xuống đất, lần khác đi tát nước bắt cá, chụp hụt một con cá vượt, tức
mình dậm chân, núi bẹp thành vũng. Chỗ nào ta cũng thấy vết chân của ông Khổng
Lồ để mà mỉm cười vì tinh thần hài hước của đồng bào Bình Định.
Và gặp cảnh nào tác giả cũng dẫn
hoặc là câu hò, câu hát, hoặc là một bài thơ, từ thơ chữ Hán của người xưa tới
thơ mới, cũ của thi sĩ hiện đại: Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Mộng Tuyết
và dĩ nhiên của tác giả và người thân của tác giả nữa, do đó gợi cho ta cái cảm
giác như được nghe nhạc đệm trong một phim tài liệu, lúc thì bi hùng:
Tái ngắt mặt gian xương tợ giá
Đỏ lòm bìa sách máu là son
(Mai
Xuân Thưởng)
lúc thì u hận:
Không một mối trăng ngà rung muôn
lá
Không một làn mây bạc vẩn chân
trời
Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo lắng tai
nghe...
(Chế
Lan Viên)
lúc thì tình tứ:
Con chiền chiện
Nó liệng trên cao,
Nó kêu làm sao tằng lăng tíu líu;
Em còn lịu địu không nỡ dứt tình,
Chờ khi thanh vắng một mình
Đón anh em hỏi: phụ tình tại ai.
(Bài
hò)
lúc thì nhẹ nhàng như ngọn gió
hây hẩy bên sông:
Bác ở bên ông Tờ đưa khách,
Tôi lệ thường cắp sách ngày hai
Trần ai tri kỷ là ai?
Non xanh nước biếc hôm mai bạn
bằng...
(Một
nhà giáo vô danh tặng một ông lái đò)
Thi sĩ mà viết về quê hương thì
vị nào cũng vung tay chép thơ, chính vì vậy mà tôi thích được đọc địa phương
chí của họ.
Sau cùng tôi còn được một cái thú
nữa không phải không đáng kể: cái thú tưởng tượng được nếm cái vị của trà Cam
Khổ mà tác giả khen hơn là cả trà Vũ-di-Sơn, trà Trảm Mã, uống vào rồi thì
cuống họng ngọt và thơm đến hàng giờ, thứ trà tự nhiên chứ không trồng được,
xưa dùng để tiến vua và đã làm cho một kẻ mất đầu vì sơ ý để cho khỉ trên núi
kéo xuống phá hết. Không ngờ nước mình lại có thứ trà quý như vậy. Nhưng độc
giả nào không ưa trà mà thích rượu thì có món thịt bò thưng (do chính nhà Tây
Sơn bày ra), món ốc um và năm sáu thứ cá ngon nữa.
Các vị học giả chắc chưa dám dùng
ngay một số tài liệu lịch sử trong sách (có người cho rằng Nguyễn Lữ là
anh Nguyễn Huệ, và theo đạo Hồi Hồi...)
nhưng chính tác giả cũng đã tự nhận rằng nhớ đâu chép đấy và sẽ sẵn lòng chờ
các bậc cao minh hơn chỉ giáo.
Nhưng người hơi khó tánh tất mong
tác phẩm được trình bày hoàn mỹ hơn (điều này, chính nhà xuất bản cũng đã có
lời cáo lỗi); mong thu ngắn đoạn này, bỏ bớt đoạn kia, hoặc viết thêm về mục
nọ, và riêng tôi, tôi cũng muốn được biết thêm về sự phát triển của hát bội ở
Bình Định, về nhạc võ Tây Sơn, về con cháu nữ kiệt Bùi Thị Xuân cả về các đồng
bào thiểu số và nhất là mong có một bảng kê các nhân danh, địa danh trong sách
để dễ tra kiếm). Nhưng tôi chắc ai cũng phải nhận rằng trong mươi năm nay Nước
Non Bình Định là cuốn địa phương chí có giá trị nhất.
Tác giả còn hứa sẽ cho in tiếp
cuốn nhân vật Bình Định và bộ địa phương chí lúc đó mới gọi là đủ.
Tôi nghĩ dù không có tập Mùa Cổ
Điển, và tập Mộng Ngân Sơn, một tập chứa nhiều bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt rất
hay, mà sau này ai có muốn làm tiếp công việc phê bình của Hoài Thanh tất phải
nhắc tới, dù không có hai tập đó đi nữa, thì chỉ nội công phu viết địa phương
chí cho Bình Định, thi sĩ cũng xứng đáng là người con của Bình Định rồi.
Trong đặc san Sử Địa về Quang
Trung (9 – 10) có bài của ông về Tây Sơn (1), ông dẫn hai câu thơ của cụ Sào
Nam:
Đành rằng công đâu may khỏi tội,
Bao nhiêu chữ đó bấy nhiêu tâm.
để mong độc giả hiểu nỗi lòng của
ông vì quê hương mà viết, (viết thuộc lòng, nghe sao viết vậy), trong lúc không
thể làm khác được, mà tuổi đã cao, không thể chờ đợi thêm được nữa.
Tôi lại nghe nói ông giao tác
phẩm cho nhà xuất bản từ tháng 5 năm 1966, đến tháng 12 năm 1967 mới in xong,
trong mười chín tháng đó ông trông chờ từng ngày một, và khi nhận được sách ông
bùi ngùi thành mấy câu thơ:
Một năm bảy tháng trong thai,
Lòng mong thấy mặt ngày dài hơn
năm.
Nước non biền biệt tri âm
“Bao nhiêu chữ bấy nhiêu tâm”...
ngại ngùng.
Tấm lòng của ông với quê hương
thật là đẹp! Quê hương lẽ nào không quí tác phẩm của ông?
===================
XỨ TRẦM HƯƠNG
Tôi
cũng ham đi nơi này nơi khác để biết
non sông gấm vóc của mình, nhưng tôi phải thú thật rằng ngay những nơi tôi đặt
chân tới, tôi cũng chẳng biết chút xíu gì cả.
Xin
lấy thí dụ tỉnh Khánh Hòa.Tôi đã ra chơi ngoài đó hai lần, trước và sau thế chiến,
mỗi lần ở lại vài ba ngày. Tôi đã đi chơi Tháp Bà, Hòn Chồng, viện Pasteur, viện
Hải học, vài ngôi chùa và giáo đường ở Nha Trang, đã leo đèo Rù Rì, tắm ở bãi
biển Đại Lãnh nước trong như ngọc bích, nhưng bây giờ đọc Xứ Trầm Hương của
Quách Tấn, tôi mới thấy thắng cảnh cùng cổ tích ở Khánh Hòa mười phần tôi chưa
coi được một.
Đúng
như Vương An Thạch đã nói trong bài "Đi Chơi Núi Bao
Thiền", chỗ phẳng và gần thì kẻ đến chơi nhiều, chổ hiểm mà xa
thì kẻ đến chơi ít. Mà những cảnh kỳ vĩ phi thường ở trong đời thì lại thường ở
những chổ hiểm và xa ít người tới.
Những
cảnh kỳ vĩ ở Khánh Hòa đều cách xa quốc lộ I và nhờ thi sĩ Quách Tấn tôi mới được biết tên. Chẳng hạn, núi Mẹ bồng
con (Hòn Mẫu tử) ở quận Khánh Dương có nhiều tảng đá hình thể lạ
lùng: rổ may với sợi chỉ thòng xuống đất, cối và chày, sàng, chổi, con nghĩa
khuyển nằm trông con gà cồ đang lẩn quẩn bên cối xay, lại thêm một bàn cờ tiên
đang dàn quân nhưng mất đâu một con tốt … rồi Chữ Mta (đọc là Cử Mơ Ta) lầm lì
và dữ, có trầm hương, voi trắng và chim đại bàng to lớn đến nỗi có thể tha được
một con bò con, loại chim mà tôi cứ tưởng là từ trước chỉ có ở Ấn Độ và các quốc
gia A Rập; rồi Hòn Bà ở Ninh Hòa, chim chóc nhiều như lá, đủ loại, con thì như
trái ớt chín, con thì như lá chuối non v.v...
Một
cảnh kỳ quái là cảnh thác Võng : một dây rừng lớn bằng bắp vế, giăng ngang sà sà trên mặt một thác nước chảy rất mạnh. Nước
thác đánh tung giây lên cao rồi rơi xuống, lại tung lên rớt xuống, tưởng chừng
như có các vị thần nào vô hình nào chơi cái nhảy giây quanh năm suốt tháng, ghe thuyền qua lại phải canh cho đúng lúc để lướt
nhanh qua, chậm tay một chút sẽ bị giây quật, ghe không vỡ cũng chìm.
Còn
cả trăm cảnh lạ khác nữa: núi, thác, hang, hố… và tôi chắc ngay
những người sinh trưởng ở Khánh Hòa cũng vị tất đã được nghe tả chứ đừng nói là
tới thăm. Cảnh nào tác giả cũng tả tỉ mỉ, dẫn sự tích truyền thuyết hoặc thơ để
cho câu chuyện được thêm hứng thú.
Ngay
những cảnh ở thị trấn Nha Trang, tôi cũng phải thú thật rằng mặc dù đã coi nhiều
lần mà nay đọc Xứ Trầm Hương mới thực sự là được "thấy". Trước kia tôi cho ngọn đồi Tháp Bà kém xa ngọn núi
Sam ở Châu Đốc, mà Hòn Chồng cũng kém Hòn Phụ tử ở Hà Tiên. Nay được đọc những
đoạn thi sĩ Quách Tấn tả cảnh đêm giao
thừa ở Tháp Bà và dẫn thơ của người xưa lẫn người nay vịnh Hòn Chồng, tôi mới
nhận ra cái đẹp của Nha Trang. Giá tôi được đọc trước khi đi du lịch
thì cái thú của tôi đã tăng lên gấp mấy.
Hai
đoạn tả cảnh đó đều dài ba bốn trang, tôi chỉ xin trích dẫn ra đây ít hàng tả cảnh
trên.
… "Khí trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm. Một khí ấm
đặc biệt, dìu dịu thưng thưng, trong trong lại mát mát, lại phảng phất một mùi
hương thanh thanh: hương trầm, hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương
nhang hương hoa từ trong nhà chùa bay ra? (…) Núi non trông biếc thêm, sông biển trông
trong thêm. Và những cây muồng hòe ở hai bên đường, những khóm lau khóm dứa ở nơi
bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm (…). Tựa như bao nhiêu sao trên trời sa xuống đọng nơi
cây cối. Ánh vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi (…) Từ cầu Hà Ra qua đến Xóm Bóng, du
khách có cảm giác đi ngang qua một rừng
sao. Nhưng rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động, hễ vùng này sáng thì vùng kia tắt, vùng này tắt thì
vùng kia liền sáng, cứ sáng tắt ,tắt sáng…luân phiên liên tục, không mau không
chậm,đều đặng nhịp nhàng.
(…) Và trên tầng ánh sáng khi tắt khi
hừng, bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật trên nền trời
cao, uy nghiêm nhưng hiền hậu.
Những ngọn đèn lồng ngũ sắc dăng trên cành cây những ngọn huyền đăng treo
trước chân tháp, chập chờn trong bóng lá, rọi vào cảnh vật, chỗ tỏ chỗ mờ, nơi thưa
nơi nhặt, vui vẻ nhưng rụt rè, như cô gái quê mặc áo mới ra chào khách. (trang178-180)
Cảnh
thiên nhiên cũng như thiếu nữ: dù tầm thường đến đâu cũng có vẻ đẹp riêng,
nhưng vẻ đó chỉ hiện lên một lúc nào thôi; và phải là hàng nghệ sĩ có tình
riêng với non sông mới nhận ra được, cũng như phải yêu một thiếu nữ nào mới nhận
ra cái duyên kín của nàng.
Thi
sĩ Quách Tấn coi Xứ Trầm Hương là “nghĩa mẫu” của mình, yêu đất Khánh Hòa như
yêu Bình Định, quê hương của ông, nên mới thấy được hết những vẻ đẹp của Khánh
Hòa, hơn nữa, còn tô điểm thêm cho non nước Khánh Hòa. Đọc những trang 354, 355,
đoạn ông tả cái thú uống nước dừa, độc giả sẽ thấy tôi dùng chữ "tô điểm" đó không phải là quá đáng. Ông có dẫn một câu của
Lưu Vũ Tích, đại ý rằng: "Non không tại
cao, có tiên thì nổi danh. Nước không tại sâu, có rồng thì hóa linh". Và tôi muốn thêm: "Nhưng non nước đều phải nhờ ngọn bút của
nghệ sĩ thì danh mới truyền rộng".
Trong
Lời Thưa, tác giả bảo Xứ Trầm Hương không phải là một tập địa phương chí, mà chỉ
là một tập du ký, Sự thực đó cũng là một tập địa phương chí (dày 480 trang) ghi
chép về lịch sử, địa lý, cổ tích, danh nhân, kinh tế, thổ sản (trầm,
yến sào, cát, đều nổi tiếng trong nước).
Cũng công phu như bất kỳ một cuốn địa phương chí nào từ trước tới nay; nhưng nhờ
lòng yêu thiên nhiên, nhờ tâm hồn nghệ sĩ và ngọn bút của ông mà chúng ta có cảm
tưởng được đọc một tập địa phương chí hơn là một tập
du ký. Phần tả cảnh thiên nhiên và cổ tích chiếm non 300
trang, gần hai phần ba tác phẩm.
Đã
ngoài lục tuần mà thi sĩ vẫn cặm cụi, âm thầm ghi ơn của non sông, chẳng bù với
những cơ quan này nọ luôn luôn hô hào trở về nguồn, phát huy văn hóa truyền thống… mà
mười mấy năm nay chẳng làm gì được cho quê hương cả, người ta có dư phương tiện,
chỉ cần định một kế hoạch là trong một vài năm có đủ một địa phương chí, quay
được một phim tài liệu cho mỗi miền, ghi lại những di
tích, truyền thuyết nếp sống, phong tục chẳng bao lâu nữa sẽ mai một vì lửa chiến tranh, vì đợt sống mới và cũng vì những người
già cả sẽ lần lượt khuất bóng hết. Công việc đó có lợi cho văn hóa, giáo dục biết
bao: thanh niên có biết cái lạ cái đẹp của quê hương rồi mới yêu quê hương được. Tôi mong tới cái ngày được thấy trên màn vô tuyến
truyền hình Việt Nam những cảnh mà ông Quách Tấn, Nguyễn Đình Tư, Phạm Trung
Việt, Thái Văn Kiểm, Huỳnh Minh... đã
tả trong các sách. Tôi chắc chắn khán giả sẽ thích thú hơn là coi phim du lịch
scandinavie mới chiếu hồi đầu xuân.
Đọc
Xứ Trầm Hương tôi còn có cảm tưởng này, Nha Trang nhờ khí hậu mát mẻ, cuộc sống
dễ chịu, có nhiều thắng cảnh cổ tích, có biển có núi
nên thích hợp với hạng người hoạt động về văn hóa. Hiện nay đã có viện Pasteur,
viện Hải học, viện Phật học, chỉ còn thêm một viện Đại học, một thư viện, một
nhà in lớn là sẽ trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng của xứ sở….
Nguyễn Hiến Lê
(Trích trong Văn số 150 ngày 15/3/70)
============================
THI SĨ QUÁCH TẤN: HAI TẬP THƠ VÀ MỘT CHỨNG BỆNH
Tôi
nghe người ta thường nói là hễ làm thơ hay thì
viết văn không hay và người ta dẫn ra trường hợp Tản Đà. Lời đó không luôn luôn
đúng. Trái lại theo tôi hễ làm thơ hay thì
viết văn dễ cũng hay. Kỹ thuật thơ và
văn không khác nhau bao nhiêu, mà kỹ thuật không phải
là điều quan trọng: quan trọng là cái tài, là cảm xúc, tư tưởng, tức cá tính của
người cầm bút. Trong văn học sử không thiếu gì người nổi tiếng cả về thơ lẫn
văn như Trung Hoa có Lý Bạch, Hàn Dũ, Tô Đông Pha… nước
ta có Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát… Thời Nam Phong
nhiều người thích cả văn lẫn thơ của Đông Hồ; tới thời Văn Hóa và Ngày
Nay, văn và thơ Xuân Diệu đều được hoan nghênh bởi giới thanh niên và năm năm nay, từ khi thi sĩ Quách Tấn cho ra 2 cuốn Nước Non
Bình Định, Xứ Trầm Hương thì văn của ông cũng được nhiều người thưởng thức cả
già lẫn trẻ.
Tôi
đã có dịp giới thiệu hai tập ấy với độc giả rồi trên tạp chí Văn mấy năm trước.
Hôm
nay xin giới thiệu hai tập thơ, một tập thơ dịch, một tập sáng tác mới xuất bản
trong mấy tháng gần đây.
Tập
đầu nhan đề là Giọt Trăng gồm 60 bài ngũ ngôn tuyệt cú. Thể đó dễ làm: không cần đối, muốn bỏ niêm cũng được, còn vần
thì tùy ý ba hay hai; nhưng khó hay: tình, ý, cảnh phải được lọc đã, cho còn
thoang thoảng thôi, rồi chắt lại để thu gọn trong 20 chữ. Cho nên nó hợp với tuổi
già hơn, mà phái tân học ít người biết thưởng thức.
Tôi
xin dẫn vài bài:
Ao Trưa
Bờ
ao cọng cỏ chỉ
Lả
lướt ngọn nồm đưa
Con
chuồn chuồn điểm nước
Mong
dừng chân nghỉ trưa.
Chép Thơ
Thơ
không người thưởng thức
Mình
chép riêng mình ngâm
Con
bướm tìm hương lại
Vô
tâm mà hữu tâm.
Say Nắng
Vườn
rộng tiếng chim thưa
Bướm
vàng say nắng trưa
Chờn
vờn chân muốn đậu
Vòi
mướp gió đong đưa.
Có
cái giọng một ông lão nhàn tản, khoáng đạt mà nghệ sĩ.
Cả
khi khóc con, giọng tuy ấm ức mà vẫn âm thầm, nhưng thấm thía, không nói mà
chính là nói nhiều.
Không
nói, lòng đau khổ
Nói,
không nói được gì
Canh
tàn nằm nuốt lệ
Thời
loạn kiếp nam nhi.
Nhà
văn Bình Nguyên Lộc lúc này đọc bài Khóc
Con (III), chắc cũng thấy
chua xót:
Mừng
tre già măng mọc
Ai
ngờ tre khóc măng
Nuốt
lệ nhìn di ảnh
Đêm
hè cơn gió băng.
Quách
Tấn làm tất cả 12 bài khóc con trai, trong tập chỉ in 6 bài, bài nào cũng là tiếng
thổn thức của thời đại, của đất nước.
Giọt
Trăng xuất bản từ đầu năm (tháng 3/1973), hiện không bán ở Việt Nam mà hình
như cũng không bán ở Pháp. Ông Thi Vũ,
giám đốc nhà xuất bản Rừng Trúc ở Paris, cũng là Giám đốc nhà in VOV (25 Rue Jaffeux, 92230 Gennevilliers), vốn là một thi sĩ, vì yêu thơ và quí Quách Tấn nên
in toàn trên giấy tuyết đào để tặng các bạn văn. Bìa là một phần bức họa cổ Nhật
Nguyệt, thế kỷ thứ XIV, vẽ một cảnh trăng trên núi,chỉ dùng màu xanh trên nền
tím. Riêng hai mươi bản đặc biệt, in trên lụa bồi, ban đêm để dưới ánh đẽn ống,
coi linh lung tưởng chừng có một giọt trăng lạc vào phòng, thật huyền ảo. Vì
không có chữ Việt, ông Thi Vũ phải dùng một kiểu chữ của Đức, sắp được bài nào
vỗ bài đó rồi mới điểm những dấu (sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã ) lên, sau cùng chụp
hình rồi mới in. Từ trước đến nay tôi chưa thấy ở Việt Nam hay ở ngoại quốc có
cuốn nào mà in công phu như vậy. Người nào chơi sách mà được một bản đặc biệt
cuốn đó, chắc sẽ quý như vàng.
Cuốn
thứ nhì là cuốn Tố Như Thi mới phát hành ít tuần nay, do nhà An Tiêm xuất bản ở
Sài Gòn. Ông giám đốc nhà An Tiêm cũng là một người rất yêu cái Đẹp. lần này nhờ
Thi Vũ trình bày bìa. Bìa Giọt Trăng cổ kính bao nhiêu thì bìa Tố Như Thi mới mẻ
bấy nhiêu: Mấy ngón tay tháp bút của một mỹ nhân đặt nhẹ trên một
trang giấy trắng. Sách in 3.000 bản toàn giấy tốt, dày, có phần hơi dày quá nữa,
cũng đáng kể vào loại sách quí. Trong tình trạng xuất bản bi đát như lúc này,
nhà An Tiêm phải quý Tố Như và Quách Tấn lắm mới dám in sách như vậy.
Nguyễn
Du lưu lại cho chúng ta ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên làm từ
1786 đến 1795, Nam Trung từ 1805 đến 1808 và Bắc Hành trong hai năm đi sứ
1813-1814. Nghe nói tất cả gồm trên 200 bài, đại đa số là thơ Luật. Thơ chữ Hán
của cụ cũng bình dị, tự nhiên mà cũng buồn man mác như thơ nôm của cụ, mà chứa tâm sự nhiều hơn.
Đời
cụ sao mà long đong thế. Mới đậu tam trường 19 tuổi thì gặp tai biến dồn dập.
Gia đình mỗi ngày một suy sụp, anh em ly tán, cụ phải về ở nhờ quê vợ tại Thái
Bình. Trong 10 năm ăn gởi nằm nhờ, biết bao tủi nhục; phải giữ ngu dại để người
ta khỏi ganh ghét, phải kiêng nể mọi người để
được toàn mạng. Không có một đồng một chữ mà đau ốm liên miên,
“đành nằm chờ chết với văn chương”.
Sau
cụ về quê nhà ở Hà Tĩnh thì nhà bị
phá, gia sản bị tịch thu, lại bị nhốt ngục bốn
tháng.
Mãi
đến năm 1402, ba mươi bảy tuổi mới ra làm quan với nhà Nguyễn,
nhưng thường bất mãn, có khi bị quở trách, khinh khi nữa. Và gần như lúc nào
cũng bị hai con ma bệnh và nghèo ám ảnh. Làm quan thì thanh liêm mà gia đình mười
mấy miệng ăn, cho nên đàn con luôn luôn gào đói:
Thập khẩu đề cơ Hoàng lĩnh bắc
Và
đứa nào đứa nấy xanh như lá rau:
Thập khẩu hài nhi thái săc đồng.
Đói
tới cái mức suốt ngày bếp lạnh, phải hái hoa cúc ăn đỡ, như
Tô Đông Pha ngày xưa ở Mật Châu:
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa
Song ngoại hoàng hoa tú khả xa
Bọn cầm bút chúng ta
ngày nay có phải ăn cháo thì cũng có niềm an ủi đấy.
Ai
muốn hiểu Nguyễn Du nhất là các giáo sư dạy về Nguyễn Du, đều phải đọc ba tập
thơ đó, Nghe nói ở ngoài Bắc, người ta đã dịch ra rồi từ bảy tám năm trước. Ở trong
Nam chúng ta thì bản dịch của Quách Tấn là bản đầu tiên. Ông lựa trong ba tập
được 72 bài, nhờ bạn chép chữ Hán (để làm bản kẽm)
còn ông thì phiên âm chú giải, dịch nghĩa rồi dịch thành thơ luật, một số dịch
thành lục bát, hoặc lục bát gián thất.
Ông
làm việc rất cẩn trọng, chẳng hạn câu cuối bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu:
Hải giác thiên nhai tam thập niên
Có
người cắt nghĩa rằng “ở nơi góc bể chân trời 30 năm".
Nghĩa đó sai vì bài đó làm khi Nguyễn Du lánh về quê vợ, chỉ
ở đó nhiều lắm là 10 năm làm gì tới 30 năm. Ông sửa lại
“tam thập niên” đó phải giảng là Ba Mươi Tuổi.
Nhưng
cũng có điểm tôi còn ngờ, chứ chưa dám quyết.
Bài
Thăng Long Cầm Giả Ca, ông chú thích Giám hồ là Hoàn Kiếm. Từ trước tôi cứ tưởng
Giám hồ là cái hồ trước Quốc Tử giám (Khổng Miếu ) Hà Nội; hồi tôi lớn lên hồ
đó chưa lấp hết.
Việc
dịch ra thơ mới công phu nhất. Ông dịch sát có khoảng mươi bài đọc thú ngang đọc
nguyên tác. Tôi xin cử bài:
Quỷ Môn Đạo Trung
Quỷ
môn thạch kỉnh xuất vân côn
Chinh
khách nam qui dục đoạn hồn
Thụ
thụ đông phong xuy tống mã
Sơn
sơn lạc nguyệt dạ đề vôn
Trung
tuần lão thái phùng nhân lãn
Nhất
lộ hàn uy trượng tửu ôn
Sơn
ổ hà gia đại tham thụy
Nhật
cao do tự yểm sài môn.
Trong Đường Quỷ Môn
Đường
Quỷ Môn quan mây ngút xông
Về
Nam chinh khách tái tê lòng
Gió
dồn chân ngựa cây xao xác
Trăng
rụng đầu non vượn não nùng
Lười
việc đón đưa già trước tuổi
Đỡ
cơn giá rét rượu đầy chung
Nhà
ai góc núi sao ham giấc
Nắng
giọi hiên chưa mở cánh bồng.
Tôi muốn trích thêm ít
bài nữa, nhưng giấy đắt quá, tòa báo nào cũng ngại.
Trong
một năm giữa lúc củi quế gạo châu này, cho ra được hai
tập thơ (sáng tác và dịch) tập nào cũng hay, cũng đẹp, thật là một điều hiếm thấy.
Quách
Tấn khoảng 65 tuổi. Mấy năm gần đây ông đã chẳng nghỉ ngơi mà còn âm thầm sáng
tác mạnh hơn thời trẻ nhiều. Ông còn ba tập thơ và trên 10 tập văn chưa in,
trong số này có ba tập thi thoại Trong Vườn Hoa Thơ, Hương Vườn Cũ,
Những Bức Thư Thơ, một tập về “lịch trình tiến triển thơ Đường luật” nhan đề là
Giọng Hàn Thuyên, Tôi tin chắc những tập ấy có nhiều giai thoại, nhận xét, phê
bình lý thú và bạn nào yêu thơ cũng mong sớm được đọc, nhưng tình hình kinh tế
như vậy, ai là người dám hy sinh như Thi Vũ với An Tiêm?
Nghe nói mấy năm nay ông viết bộ Hồi Ký: Bóng Ngày Qua (kể
lại cuộc đời của ông, chép truyện các bạn văn của ông…) đã được trên ngàn trang
rồi, mà còn nữa… Đáng phục ông già này thật.
Nhưng
đang viết dở thì ông phải ngưng lại. Mấy tháng trước ông bị một
chứng mà y sĩ nhãn khoa cho là đáng ngại nhất: chứng glaucome cấp tính. Huyết
áp ở một con mắt tăng lên trầm trọng, nhức nhối vô cùng, không sao ngủ được,
ông phải vô Sài Gòn mổ; bây giờ hết nhức, nhưng con mắt đó kể như lòa rồi, bác
sĩ cấm ngặt đọc sách, viết lách, suy nghĩ.
Khi
báo tin cho tôi, giọng ông dí dỏm như một triết
nhân:
Tôi nay đã thành
người “ nhất mục thập hàng” và phải “ bế môn tạ khách”, “bế sương tích thư" để dưỡng bệnh. Tôi có bài thơ tức sự, xin chép để
ông cười cho vui:
Duyên văn chương
đương thắm
Thân già bỗng đảo điên
Một đêm đầu nhức nhối
Suốt tháng bệnh
triền miên
Thành nửa cụ Đình Chiểu
Không hai chàng
Vân Tiên
Trên đường hoa
chỉ thoáng
Những bán diện
thuyền quyên
(Ngày 20 tháng
8/1973)
Bệnh
Glaucome là bệnh khó trị nhất, hễ một con mắt bị rồi
thì gần như chắc chắn rằng con kia sẽ bị nốt. Có bác sĩ khuyên nên mổ trước mắt
kia đi, có bác sĩ can, bảo đợi nó bị rồi mới mổ. Một Đông y sĩ bảo có thể trị
được (chứ chưa chắc) mà phải trị lâu 5, 6, tháng và mỗi thang thuốc tới 10.000
đồng vì mỗi chỉ tê giác cũng phải 6.000 đồng rồi.
Nghĩ
vậy tôi càng thấy hai tập Giọt Trăng và Tố Như Thi ra đúng lúc này an ủi ông được
nhiều lắm, nhiều lắm.