TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Cơ
sở đã vững vàng, quân sĩ, vũ khí, lương thực tạm đầy đủ, Nguyễn Nhạc xuống An
Thái thỉnh giáo thầy, Trương Văn Hiến đáp:
-
Khởi sự được rồi.
Nguyễn
Nhạc xin thầy lên nắm quyền chỉ đạo, Trương công nói:
-
Ông là người trí dũng có thừa. Huống nữa văn nhân võ sĩ về với ông đều là những
anh hùng hào kiệt. Tôi tuổi già sức yếu, chỉ mong được hưởng chữ nhàn. Nhưng
khi có việc cần, tôi sẵn sàng góp sức.
Công
lại dặn:
-
Ba yếu tố cần thiết để thành công, ông đã có đủ. Nhưng luôn luôn phải giữ vững
nhân tâm. Được đất không bằng được thành, được thành không bằng được lòng
người.
Nguyễn
Nhạc bái tạ về, lo chỉnh đốn quân ngũ, sắm kỳ hiệu, đặt quan chức.
Quân
chia làm ba đạo:
-
Một đạo lo canh phòng chiến khu, tiếp tục tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ, đô
đốc việc sản xuất và giữ an ninh trật tự ở vùng Tây Sơn.
-
Một đạo xuống đánh chiếm huyện lỵ Tuy Viễn.
-
Một đạo ra chiếm giữ vùng núi hai huyện Phù
Ly, Bồng Sơn sau khi huyện lỵ Tuy Viễn bị hạ.
Đạo
thứ nhất giao cho Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Đình Tú, Võ Xuân Hoài.
Đạo
thứ nhì do Nguyễn Nhạc thống lãnh, có Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc bên võ,
Trương Mỹ Ngọc, Triệu Đình Tiệp bên văn phò tá.
Đạo
thứ ba do Trần Quang Diệu chỉ huy, có Võ Văn Dũng, Lê Văn Hưng bên võ, La Xuân
Kiều, Cao Tắc Tựu bên văn cộng tác.
Kỳ
hiệu hình vuông, nền đỏ, chữ vàng, viền ngoài và tua xanh.
Đại
kỳ thêu kim tuyến ba chữ Tây Sơn Vương.
Quân
kỳ nhỏ thua đại kỳ một mười một tám, thêu chỉ vàng họ và chức vị cấp chỉ huy.
Quan
chức, đại loại gồm có: Bên võ: Đại Tổng Quản, Đại Đô Đốc, Đô Đốc, Đề Đốc. Bên
văn: Đại Học Sĩ, Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Nguyễn
Huệ được phong Đại Tổng Quản.
Bùi
Thị Xuân, Võ Đình Tú được phong Đại Tổng lý.
Võ
Xuân Hoài được phong Đại Học Sĩ.
Phong
Trần Quang Diệu làm Đô Đốc, Võ Văn Dũng là Phó Đô Đốc, Lê Văn Hưng làm đề đốc.
Nguyễn
Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc làm Tả Hữu Đô Đốc.
Các
quan văn đều được phong Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Việc
vận tải lương thực giao cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Thung với chức tán tương quân
vụ. Nguyễn Thung lo mặt Bắc, Nguyễn Lữ lo mặt Nam.
Việc
sơn phòng giao trọn cho chúa Xà Đàng Bok Kiơm. Các sắc tộc vùng An Khê, Pleiku,
Kon Tum đều thuộc quyền quản lý của Bok Kiơm, Nguyễn Nhạc tặng Bok Kiơm một nón
lông đen chớp bạc quai tua điều, một con chiến mã và một cây mác bạc.
Còn
bà họ Trần và Cô Hầu vẫn tiếp tục việc buôn trầu, làm ruộng, với sự trợ lực của
Bùi Thị Xuân.
Mọi
việc an bài, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo Trời Đất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng
của chúa tôi và tế cờ xuất quân.
Đàn
lập trên đèo An Khê, nơi nghẹo Cây Khế, dưới bóng hai cây đại thọ: Cây ké, cây
cầy.
Binh
tướng của ba đạo quân tập trung về phía đông đèo An Khê từ chân đèo đến đỉnh
đèo.
Khi
đại quân đến gần tế đàn thì từ trên cây ké một con rắn bò xuống. Con rắn này
thân lớn bằng cột nhà. Sắc đen hánh như hạt huyền, người đương thời gọi là Ô
Long, nằm chận ngang đường đi. Quân không dám tiến, Nguyễn Nhạc liền tuốt gươm
chém chết. Nhớ chuyện Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, tướng sĩ tin là điềm
lành, ai nấy đều nức lòng phấn chí.
Lễ
tổ chức đơn giản nhưng long trọng.
Bóng
cờ đào chen bóng cây xanh, tiếng chuông trống lẫn tiếng hô của tướng sĩ, tràn
ngập, vang dội cả suối rừng. Hùng khí ngút ngàn.
Lễ
tất, Tây Sơn Vương ban bố quân luật, gồm ba điều:
w
Không được xâm phạm tánh mạng và tài sản của đồng bào.
w
Không được tiết lộ bí mật quân sự.
w
Không được gây xáo trộn, chia rẽ trong hàng ngũ.
Ai
phạm phải một trong ba điều, sẽ bị chém tức khắc.
Tiếng
hoan hô vang rừng.
Rồi
lệnh truyền xuất phát.
Đạo
quân Nguyễn Huệ kéo về chiến khu.
Đạo
quân Trần Quang Diệu theo đường núi ra hướng bắc.
Đạo
quân Tây Sơn Vương kéo thẳng xuống hướng đông.
Đó
là ngày rằm tháng tám năm Quý Tỵ (1773).
Đạo
quân của Tây Sơn Vương xuống đến núi Bà Phù thì trời xẩm tối. Vương truyền quân
dừng lại nghỉ. Đêm đến mở yến tiệc đãi tướng sĩ tại thung lũng dưới chân núi Bà
Phù. Sáng hôm sau mới tiếp tiến phát.
Nhân
đồn binh được yên ổn và yến ẩm được vui vầy. Vương đặt tên hòn Bà Phù là Tâm
Phúc, và người địa phương gọi thung lũng Bà Phù là Hóc Yến.
Sáng
ngày 16, gà vừa cất tiếng gáy, đạo quân của Tây Sơn Vương đã thức dậy lên
đường.
Nguyễn
Lữ đã chuẩn bị sẵn sàng tại chân núi Đồng Phong để đón tiếp.
Đến
Đồng Phong tướng sĩ dừng lại ăn uống và lãnh lương thực, rồi đi thẳng một mạch
đến huyện lỵ Tuy Viễn. Binh đi như gió. Mặt trời vừa mọc thì huyện lỵ đã bị bao
vây. Tiếng quân hò hét dậy đất. Viên tri huyện hết hồn bỏ trốn. Nhân viên trong
huyện và tất cả lính huyện đều xin đầu hàng.
Tây
Sơn Vương ban lời phủ dụ. Trong công phủ ngoài nhân dân, mọi người đều hoan hỉ.
Những nhà khá giả đem bò heo gạo trái đến đãi nghĩa quân.
Nghe
Tây Sơn Vương chiếm đóng Tuy Viễn, một phú thương ở Cửa Giã[1] là Huyền Khê đem gia nhân
trên mười người đến xin gia nhập nghĩa quân và cúng tất cả tài sản để làm lương
thực. Tiếp theo đó, hai thủ lãnh lục lâm ở nguồn An Tượng[2] là Nhưng Huy và Tứ Linh đem
lâu la đến xin quy thuận.
Tây
Sơn Vương thu nạp và trọng dụng.
Vương
giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê đóng giữ, rồi kéo đại binh ra
đánh thành Quy Nhơn.
Được
tin Tuy Viễn đã vào tay nghĩa quân rồi. Trần Quang Diệu liền chia đại binh mình
chỉ huy ra làm ba đội. Một đội giao cho Lê Văn Hưng ở lại hậu phương. Một giao
cho Võ Văn Dũng cùng Cao Tắc Tựu đi đánh Bồng Sơn, còn mình lãnh một đạo đi
đánh Phù Ly cùng La Xuân Kiều.
Bồng
Sơn và Phù Ly, nghĩa quân kéo đến, chưa đánh đã lấy được.
Quân
cũng như dân của hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa binh.
Trần
Quang Diệu để Võ Văn Dũng cùng hai học sĩ Cao, La ở lại giữ huyện lỵ hai nơi,
còn mình thì đem quân vào hợp với Tây Sơn Vương đánh thành Quy Nhơn.
Thành
Quy Nhơn là thành cũ Đồ Bàn của Chiêm Thành.
Sau
khi đất Đồ Bàn thuộc về Việt Nam thì đặt thành phủ và chia làm ba huyện. Phủ
gọi là Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam, huyện là Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Phủ
lỵ, đóng tại thành Đồ Bàn gọi là thành Quy Nhơn, huyện lỵ Bồng Sơn đóng trên
bắc ngạn sông Lại Giang, đối diện với hòn Bích Kê ở nam ngạn. Huyện lỵ Phù Ly
đóng tại Phù Mỹ gần sông La Tinh. Huyện lỵ Tuy Viễn đóng ở nam ngạn sông Côn
cách An Thái chừng 1 cây số. Địa phận của ba huyện chạy dọc theo ba con sông
Cái: Lại Giang, La Tinh Giang, Côn giang[3].
Thành
Quy Nhơn ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly.
Tường
xây bằng đá ong, trên một giải gò cao, chung quanh có hào sâu bao bọc, thế rất
vững.
Vì
vậy nên quân Tây Sơn vây đánh đã ba ngày mà không lấy được. Tuần phủ Nguyễn
Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ.
Không
dùng sức được, Tây Sơn Vương bèn dùng mưu.
Vương
truyền lui quân rồi cho đi đóng rải rác trong những nơi khuất tịch, nằm im chờ
lệnh. Tuần Tuyên tưởng quân Tây Sơn đã kéo về núi, thông cáo cho nhân dân ai
bắt sống Nguyễn Nhạc đem nạp hoặc giết chết lấy đầu đem nạp, sẽ được trọng
thưởng. Tây Sơn Vương bèn cho đóng một chiếc cũi thật kiên cố, bên trong có máy
mở đóng, rồi tự mình vào ngồi trong cũi, bảo khiêng đem nạp cho tuần Tuyên.
Trước
khi đi, Vương ra lệnh và sắp xếp:
-
Tướng sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành có tiếng pháo nổ thì kéo
vào chiếm thành.
Lựa
tám quân nhân giỏi côn quyền, ăn mặc theo thường dân, để khiêng cũi. Khi vào
được cửa thành thì dùng đòn khiêng cũi làm côn tháo thanh cũi làm gậy đánh quân
giữ thành.
Cho
một toán quân vài mươi người ăn mặc theo thường dân, mượn cách nghiêm giải,
mang vũ khí đi theo hai bên cũi. Tổ chức một số thường dân cho chạy trước và
chạy sau đoàn khiêng cũi, là “Đã bắt được giặc rồi đồng bào ra coi...”.
Nhưng
Huy và Tứ Linh lẩn theo đám đông người đem quân mai phục ở hai bên cửa thành,
hễ nghe pháp lệnh thì xông ngay vào thành.
Sắp
đặt xong xuôi, Vương truyền quân khiêng cũi đi.
Đồng
bào hai bên đường kéo ra xem đông đảo.
Tuần
Tuyên nghe tin, cho người lên thành xem thử rồi truyền mở cửa thành, nhưng chỉ
cho hai người khiêng cũi vào thành. Những người khiêng lấy cớ cũi quá nặng, hai
người không khiêng nổi. Xin cho cả tám người vào khỏi cửa rồi ra ngay. Tuần
Tuyên y cho. Cũi khiêng vào thành, đồng bào lần lần giải tán.
Cũi
vừa qua khỏi cửa thành, cánh cửa chưa kịp đóng Tây Sơn Vương liền mở cũi chạy
ra, rút kiếm dấu sẵn trong người, chém chết viên đội trưởng giữ cửa, tám nghĩa
quân khiêng cũi, lớp côn lớp quyền, đánh tan toán giữ cửa, mở rộng cửa thành và
đốt pháo hiệu truyền lệnh... Nghĩa quân do Nhưng Huy và Tứ Linh điều khiển và
những người cầm vũ khí khi bị tuần tuyên cản không cho vào còn đứng đợi trước
thành ngheo pháo lệnh, liền kéo ùa vào thành một cách thần tốc, vừa chạy vừa
reo hò. Tuần Tuyên khiếp đảm, dắt gia đình lẻn ra cửa sau chạy trốn. Quân lính
và quan lại trong thành như rắn không đầu, đều quy hàng Tây Sơn Vương.
Kế
đó quân Trần Quang Diệu và chư tướng lần lượt kéo tới, lớp vào thành, lớp đóng
giữ bên ngoài phòng việc bất trắc[4].
Tây
Sơn Vương giao thành cho Trần Quang Diệu và các tướng đóng giữ, tự mình đem hai
quân đoàn xuống Càng Rang, nước ngọt, đánh lấy hai kho lương thực. Hai viên
quan giữ kho là Đốc Trưng Đằng và Khâm Sai Lượng chống cự. Lượng bị giết, Đằng
tẩu thoát. Vương cho chở hết lương thực về thành Quy Nhơn.
Thành
Quy Nhơn hạ xong, địa phận phủ Quy Nhơn từ nguồn chí bể thuộc về nhà Tây Sơn.
Tháo được ách tham quan Nguyễn Khắc Tuyên, người người đều hoan hỷ và đều
nguyện một lòng trung thành cùng Tây Sơn Vương.
Tây
Sơn Vương dùng thành Quy Nhơn làm căn bản. Ngọn cờ đào thêu kim tuyến bay phất
phới trên kỳ đài, hiên ngang rực rỡ.
Mọi
việc về quân sự dân sự đều được sắp xếp lại.
Quân
chia làm năm đồn Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do các Đô Đốc chỉ huy. Lính cũ của
chúa Nguyễn xin ở lại đều được sắp xếp vào hàng ngũ theo cấp bậc đã có trước.
Người nào muốn xin về thì cho về không điều kiện.
Các
quan lại đầu hàng đều được giữ nguyên chức vụ, nhưng thuộc quyền điều khiển của
các Đại Học Sĩ Tây Sơn.
Các
huyện lỵ Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn, mỗi huyện có một Đề Đốc và một học sĩ quản
lý.
Mặc
dù thành Quy Nhơn đã trở thành căn cứ chiến đấu, chiến khu Tây Sơn vẫn giữ y
nguyên và vẫn tiếp tục phát triển kinh tế và quân sự.
An
ninh và trật tự trong toàn phủ được giữ gìn chu đáo. Không một vụ lộn xộn xảy
ra trong lúc giao thừa.
Sắp
xếp xong mọi việc trọng yếu, Tây Sơn Vương chuẩn bị mở rộng phạm vi Quy Nhơn về
mặt Nam, mặt Bắc.
[2] Nguồn An Tượng nằm trong dãy núi phía Nam của huyện Tuy
Viễn. Nhưng Huy, Tứ Linh là 2 kép hát, hát hay võ giỏi.
[3] Sau này Bồng Sơn chia làm hai là Hoài Nhơn và Hoài Ân. Phù
Ly chia làm hai là Phù Cát ở trong Phù Mỹ ở ngoài. Tuy Viễn chia làm ba là Bình
Khê ở trên và nằm trọn trong ấp Tây Sơn cũ. An Nhơn ở giữa, Tuy Phước ở cuối và
chạy xuống tới biển Thị Nại.
[4] Đại Nam Chánh biên Liệt truyện và Khâm Định Việt sử Thông
Giám Cương Mục có chép rõ việc Nguyễn Nhạc dùng mưu vào thành làm nội ứng.
Nhưng lại chép người từ ngoài đánh vào là Nguyễn Thung, vào hạ thành lúc ban
đêm. Nhưng theo bức thư của Linh mục Jumilla de Diego đăng ở Bulletin de la
Socíeté des Etudes indochinoises, Nouvelle série, Tome XV, nos 3 et 4 - 1940
thì thành hạ lúc ban ngày và do đoàn quân của Nguyễn Thung và Nhưng Huy điều
khiển. Nhưng theo các phụ lão Bình Định thì Nguyễn Thung là một nhà giàu không
biết võ, lúc hạ thành Quy Nhơn đang lo vận tải lương thực.