VUA QUANG TRUNG BĂNG HÀ
NGUYỄN QUANG TOẢN KẾ VỊ
Công
việc xây dựng quốc gia đang tiến hành
trôi chảy, thình lình Vua Quang Trung băng hà.
Nguyên
nhân gây ra cái chết của Vua Quang Trung đã trở thành một nghi án lịch sử.
Đại
Nam Chính Biên Liệt truyện ghi rằng:
“Huệ
trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm lăng tẩm của Liệt Thánh.
Một
ngày kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng
thấy một lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt, từ không trung đi đến, mắng
rằng: “Ông cha mày đều sanh ở đất Vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm?”. Nói
dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh, hồi lâu mới
tỉnh lại. Từ ấy bịnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên Trấn thủ Nghệ An là
Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An”.
Đó
là lời của sử gia Nguyễn Gia Miêu[2] bịa
ra để bôi nhọ Vua Quang Trung. Bịa không được khéo, bởi ai kể lại câu chuyện
hoang đường ấy cho viết sử chép? Chẳng lẽ Vua Quang Trung kể lại giấc mộng
không mấy đẹp của mình?
Có
người bảo nhà vua bị “thượng mã phong”. Đó chỉ là chuyện hài hước.
Lại
có người độc miệng bảo rằng nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa ám hại bằng cách bỏ
thuốc độc vào rượu[3]. Rõ
là vu cáo giữa trời!
Thiết
tưởng Vua Quang Trung chết vì bệnh huyết áp cao, làm việc nhiều, suy nghĩ
nhiều, bị đứt mạch máu. Cái chết đột ngột do bệnh huyết áp cao gây nên thường
xảy ra và dân gian thường gọi là “trúng gió”. Chớ nếu quả có điều ám muội thì
dễ gì triều đình Tây Sơn đã để yên.
Truyền
rằng:
Mùa
xuân năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung hay tin Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm được
Gia Định và kéo quân ra đánh Quy Nhơn, bèn nổi giận:
-
Giống cỏ gấu không diệt tận gốc, cứ nảy ra hoài!
Liền
chuẩn bị kéo đại binh vào đánh. Lục quân từ trên đánh xuống, Thủy quân từ dưới
đánh lên. Bao vây mặt biển, cắt đứt đường núi, không cho quân Nguyễn chạy
thoát.
Mọi
việc đã sắp đặt chu đáo thì thình lình nhà vua bị cảm. Bệnh mỗi ngày một nặng.
Bèn triệu Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu thương nghị về việc dời đô ra
Nghệ An và việc đi đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình không còn sống lâu
được nữa, liền trối:
-
Ta mở mang bờ cõi gồm cả miền Nam. Nay bênh tình của ta không thể khá được, mà
Thái Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành hành ở Gia Định. Còn anh
ta thì tuổi già, cầu an, không lo hậu hoạn. Ta chết rồi, trong vòng một tháng
phải lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng lòng phò Thái tử và sớm lo
việc thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh Gia Định kéo đến, các
khanh không có đất chôn thây.
Nói
rồi băng tại điện Trung Hòa, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý.
Thọ
40 tuổi.
Ở
ngôi 5 năm.
Thái
Tử Nguyễn Quang Toản nối ngôi.
Qua
tháng 8, triều đình mai táng Vua Quang Trung tại phía Nam Sông Hương.
Thụy
là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế, một mặt vào Quy Nhơn, một mặt sang Trung Quốc cáo tang.
Vua
Thái Đức được tin, kêu lên một tiếng “Em ơi” rồi khóc ngất! Đoạn lo sắm sửa đi
điếu tang. Nhưng đình thần can gián. Nhà vua bèn sai La Xuân Kiều soạn một bài
văn tế, rồi cử Võ Xuân Hoài và Đặng Xuân Phong thay mình mang tế vật ra Phú
Xuân.
Bài
văn tế viết bằng chữ Nôm, có những câu:
Công điếu
phạt, Nam rồi lại Bắc, tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương
Tình tích
linh, ruột nối liền gan, đường u hiển rã rời tơ chín khúc.
Trời Quy
Nhơn ảm đạm màu thu
Đất Thuận
Hóa não nùng tiếng quốc.
Phái
đoàn sang Trung Hoa nói dối rằng:
-
Vua Quang Trung có di chỉ sau khi chết chôn tại Hồ Tây ở Thăng Long để đặng gần
chầu Thiên Khuyết.
Vua
Thanh tưởng thật, tứ thụy là “Trung thần”, ngự chế một bài thi Ai Thuật:
Ngoại bang lẽ dĩ hiến bồi thần
Cẩn triển tùng vô ( ) kỷ thân[4]
Nạp khoản tối gia lại ngọc khuyết
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân
Thu trung thượng ức y quan túc
Tấc hạ hồ như phụ tử thần
Thất xích bất năng tận ai thuật
Lân kỳ trung khốn xuất trung chân.
Cụ
Bùi Văn Lang dịch:
Sai khiến bồi thần lễ ngoại bang
Ít ai khứng chịu nhọc mình sang
Nào khi nạp khoản qua đầm ngọc
Không dạ hồ nghi thế tượng vàng
Dưới gối như in tình phụ tử
Giữa thu còn nhớ bộ y quang
Hồng la bảy thước không cùng chuyện
Ngay thật riêng thương tấc dạ chàng.
Càn
Long lại còn soạn một bài điếu văn, cấp một tượng Phật bằng ngọc, 3.000 lượng
bạc, sai Hộ Bộ Quảng Tây là Thành Lâm sang Thăng Long phúng điếu.
Sứ
giả làm lễ trước mộ giả của Quang Trung tại linh đường huyện Thanh Trì. Trong
điếu văn có câu:
Chúc ly
Nam cực, hiệu trung đặc trưởng kỳ xu triều;
An phách Tây Hồ, một thế vô vong ư luyến khuyết
Nghĩa
là:
Cõi Nam
phục thay quyền, tưởng lúc xu triều công đáng nể;
Chốn Tây
Hồ an phách, tấm lòng luyến khuyết chết không phai.
Còn
bài thi thì chạm đá dựng nơi mộ.
Nguyễn
Quang Toản lên ngôi sau khi Vua Quang Trung băng, năm Nhâm Tý. Qua năm Quý Sửu (1793) củi nguyên là Cảnh Thịnh nguyên niên.
Vua
Cảnh Thịnh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. mọi việc trong triều đều do thái sư Bùi Đắc
Tuyên quyết đoán.
Bùi
Đắc Tuyên là người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, cậu
ruột Vua Cảnh Thịnh. Dưới triều Vua Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái làm hoàng
hậu[5] mà
được làm quan trong triều. Vì ít học nên chỉ làm Thị Lang bộ Lễ, nhưng lại được
phép vào ra nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò chơi để mua lòng Thái Tử.
Vốn biết Võ Đình Tú có sức khỏe và có tài nhảy cao nhảy xa[6]. Tuyên xúi Quang Toản yêu
cầu Tú biểu diễn xem.
Võ
Đình Tú là một vị khai quốc công thần, theo nhà Tây Sơn từ lúc còn áo vải, chớ
đâu phải là hàng tiểu tốt mà đi làm trò mua vui cho trẻ con. Nhưng Thái Tử là
đấng Vua tương lai của mình. Võ công đâu dám không tuân lệnh.
Công
rước Thái Tử ra đứng giữa sân một tòa dinh thự hình chữ môn, mặt hướng về dãy
nhà phía tả. Công dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía tả trong chớp mắt.
Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng, quay lại thì đã thấy Công đứng
trước mặt. Công lại dậm chân nhảy vút qua khỏi nóc nhà phía hữu, lanh như chớp.
Liền đó Thái Tử lại nghe có tiếng động sau lưng khi nãy, vội quay lại thì lại
thấy Công đứng ở trước mặt. Diễn đi diễn lại, sáu bận như thế mới thôi. Thái Tử
rất lấy làm thích thú.
Một
hôm Võ Đình Tú cùng Đặng Xuân Phong vào cung bệ kiến. Biết rằng đó là hai nhà
có tuyệt kỹ về côn, Bùi Đắc Tuyên bèn tìm cách mua vui cho Thái Tử. Tuyên lấy
tư cách người đồng châu mời Võ, Đặng đến nhà riêng dự tiệc. Thái Tử cũng được
rước đến. Tiệc đã vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử đòi xem hai vị đại thần
đấu côn.
Đuốc
thắp sáng rực cả sân. Đặng sử dụng côn đồng, Võ sử dụng côn sắt. Đường côn qua
lại nhanh như chớp, mạnh như bão, đẹp như “rồng bay phượng múa”. Người đến xem
chật cả trong cả ngoài. Tiếng hoan hô vỗ tay vang dậy cả một góc thành!
Sau
cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị võ thần tài nghệ thật
tuyệt luân. Lớp thì chê hai vị công thần không biết tự trọng. Lời thị phi bay
đến tai Vua Quang Trung. Nhà vua liền quở trách Thái Tử và Võ, Đặng và cấm Bùi
Đắc Tuyên không được bày những trò vui làm mất thể thống đại thần như thế nữa.
Không
bày được trò vui này, tìm những trò vui khác. Trong nơi quyền quý thiếu gì trò
vui. Lòng ham thích của Thái Tử Toản luôn luôn được Tuyên làm thỏa mãn.
Vì
vậy nên khi lên ngôi báu, Nguyễn Quang Toản liền nhớ đến Tuyên, và Tuyên nhảy
lên ngôi Thái Sư dễ dàng như Võ Đình Tú nhảy qua nóc nhà, bất chấp cả quan chế
đã đặt sẵn. Trong cung đã có Bùi Thái Hậu. Nơi triều lại có lắm đại thần
nghiêng theo chiều gió, như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng... nên thế lực của Tuyên
rất vững. Tuyên mỗi ngày mỗi thêm lộng hành. Những quan nào theo Tuyên thì được
ưu đãi, những quan nào ra mặt chống thì bị hại, những người nào có ý chống thì
bị đẩy ra làm quan xa. Do đó mà nơi triều đình sinh ra bè phái chống báng lẫn
nhau, làm cho gốc nước bị lung lay.
Các
đại thần trung chính đều bất mãn. Một số quan văn, kẻ thì tìm kế xin về vườn,
kẻ thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức hay cách chức. Như:
-
Võ Văn Cao, người Phú Yên, làm Quốc Tử Giám trực giảng, được thăng Thái Tử
Trung Doãn đời Quang Trung, tánh cương trực, không chịu nổi thái độ và hành vi
của Tuyên, nhân về cư tang cha mẹ, ở nhà cày ruộng. Có nhiều bài thơ chê Tuyên
là gian thần. Tuyên rất giận. Khi Võ công chết, Tuyên bảo là giả chết bắt phá
quan tài ra xem, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng phải can thiệp mới được miễn.
Lại
như Trần Long Vỹ, người Hoài Ân, làm Thị Lang Bộ Lễ, cùng Tuyên là bạn đồng sự
triều Quang Trung. Nhân lúc cao hứng làm một bài thơ Nôm “Huề Mầm Thăng Huề
Thượng”, ngụ ý châm biếm Bùi Đắc Tuyên, câu kết ngụ ý tự trào:
Tương chao xưa vẫn cùng chua mặn
Mình mãi lui cui quét lá đa.
Tuyên
biết được bèn tìm cớ cách chức.
-
Đinh Sĩ An, người Bình Khê, thi đậu khoa Minh Kinh, được bổ vào Nội Các với Hàn
lâm viện Đãi Chiếu. Vì thường qua lại cùng Trần Long Vỹ nên cũng bị Tuyên ghét
đuổi về nhà.
Trần,
Đinh về Quy Nhơn thành lập một thi xã mệnh danh là Lưỡng Hoài, các danh sĩ ở ba
huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn, hầu hết đều là xã viên. Trong số xã viên có
Ngô Diên Diệu, Phan Bình Vân, Huỳnh Chiếu cùng với Đinh Sĩ An được đời xưng là
“Tây Sơn tứ tài tử”.
Về
võ thần thì được trọng dụng nhất là Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng và Lê Văn Hưng.
Họ
Ngô họ Phạm được ưu đãi vì nghiêng về phe Tuyên. Còn Lê Văn Hưng được Tuyên cho
làm người thân cận chỉ vì là người đồng châu, tánh lại thật thà bảo sao làm
vậy. Lê Văn Hưng là một quan võ giỏi đánh giặc chớ chữ nghĩa ít. Song hiệu lệnh
của ba quân đều do họ Lê ban bố, quyền thế rất mạnh[7].
Tuy
“bảo sao làm vậy” nhưng tánh Hưng lại trung trực, nên khi nhận thấy rõ Tuyên là
một kẻ đại gian, thì phản ứng mạnh. Do đó bị Tuyên xúi Vua Cảnh Thịnh giết
chết.
Các
Võ thần đã cùng nhau ra sức dựng nghiệp cho nhà Tây Sơn đều đi trấn thủ ở các
nơi hiểm yếu xa xôi. Ở trong triều một mình Bùi Đắc Tuyên tác uy tác phúc.
[1] Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt truyện chép là ngày 29 tháng
9 Nhâm Tý. Nhiều sách cũ nói về nhà Tây Sơn cũng chép theo Liệt truyện. Nhưng
trong sách La Sơn Phu Tử, học giả Hoàng Xuân Hãn, đưa ra hai chứng nhân người
Âu Châu là Gúerard và Labousse đều nói rằng Vua Quang Trung chết vào tháng
September 1792. Tính theo Âm lịch thì September năm 1792 kéo dài từ 15 tháng 7
đến 15 tháng 8 năm Nhâm Tý. Còn ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý thì nhằm ngày
13 November 1792. Chúng tôi nhận thấy
rằng lời hai chứng nhân Âu Châu hợp lý hơn là nhà viết sử hậu sinh của nhà
Nguyễn. Vậy Vua Quang Trung băng vào tháng 7 năm Nhâm Tý.
[2] Sử gọi dòng Nguyễn Huệ là Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh
là Nguyễn Gia Miêu.
[4] Bản truyền thiếu một chữ.
[5] Tuyên là anh ruột bà hoàng hậu họ Bùi, là anh con bác ruột
của Bùi Thị Xuân.
[6] Tuyên ở Xuân Hòa, Tú ở Phú Phong, hai làng giáp giới nhau
(nay nhập thành một xã) cho nên hai bên quen biết nhau từ lúc nhỏ.
[7] Về Lê Văn Hưng có một giai thoại rằng: Lúc còn trẻ ở nhờ
nhà họ Dương, giao tình cùng với người tớ gái của chủ nhà tên là Ngọc Bích,
Hưng tặng cho Ngọc Bích một chiếc nhẫn vàng hẹn 5 năm sau sẽ đến cưới. Quá hẹn
không thấy Hưng đến, Ngọc Bích nhịn ăn mà chết.
Trong thời gian Hưng trấn
thủ Diên Khánh thường thương nhớ tình xưa. Có kẻ giỏi thuật thần tiên chiêu hồn
Ngọc Bích tới. Hồn nói cùng Hưng rằng 13 năm sau sẽ đến hầu khăn túi.
Khi Hưng được Bùi Đắc Tuyên
trọng dụng, một hôm trong buổi lễ mừng sinh nhật, một thương gia ở Phú Xuân đem
đến mừng Hưng một ca cơ hiệu Ngọc Bích. Hưng cho là một chuyện hy hữu, vì chẳng
những tên trùng mà dung nhan cũng phảng phất người cũ nhà họ Dương.