PHẦN THỨ BA
THẮNG CẢNH CỔ TÍCH
THẮNG CẢNH CỔ TÍCH
Để giúp cho khách du lịch đến Khánh Hòa biết qua
những nơi nào nên đến viếng, người địa phương có bài hát rằng:
Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang,
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà.
Muốn trông trời biển bao la,
Con thuyền nho nhỏ bơi ra Hòn
Chồng.
Muốn xem cá lạ biển đông,
Xuống tòa Hải Học trong vùng
Trường Tây.
Muốn vui cùng nước cùng mây,
Mây trùm Suối Ngổ, nước đầy Suối
Tiên.
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên,
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về.
Lòng mong nương bóng bồ đề,
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha
Trang.
Những
nơi kể trong bài hát là những nơi chân người nhàn du thường lui tới. Sự thật,
thắng cảnh của Khánh Hòa không phải chỉ có thế mà thôi. Những cảnh núi non sông
suối, đâu đâu cũng đều có những đặc điểm, những kỳ thú đối với những người có
đôi mắt mỹ thuật, có tấm lòng rảnh lợi danh.
Nhưng
dù lòng rảnh lợi danh đi nữa, cũng ít người có đủ thì giờ để đi xem khắp non
nước Khánh Hòa. Cho nên phần đông đành theo lời hướng dẫn trên mà đi viếng
cảnh, kẻ theo thứ tự trong bài hát mà đi, người tùy theo chỗ thuận tiện, tùy
theo phương tiện. Song trước khi đi xa, không mấy ai không tìm hưởng những cái
đẹp cái thú ở ngay trước mặt: Nha Trang.
I
NHA TRANG
A
Tại sao lại gọi là Nha Trang ?
Có
người bảo rằng:
-
Xưa kia nơi đây chỉ toàn nhà tranh vách đất. Riêng tòa nhà của Bác Sỹ Yersin
bằng gạch ngói đồ sộ và quét vôi trắng. Người ngoại quốc đi ngang qua biển Cù
Huân, trông thấy đất liền, hỏi là xứ gì. Người thông ngôn thoáng thấy nhà Bác
Sỹ Yersin trăng trắng bèn đáp “Nhà Trắng”. Người ngoại quốc mới ghi vào địa đồ,
nhưng vì chữ Âu Châu không có dấu, nên ghi là “Nha Trang”.
Đó
là câu chuyện hài hước bày đặt ra để nhạo những ông thông dịch viên ít học. Chớ
tên Nha Trang đã có từ khi nước Việt Nam chưa sản xuất những ông thông dịch
viên mà xưa kia gọi là Thông Ngôn, và trước khi người Âu Châu sang Á Đông tìm
thuộc địa.
Nha
Trang do chữ Chàm Ea Tran hay Yjatran mà ra [1]. Trong các
sách viết trước thời Pháp thuộc, đã dùng đến. Như trong tập “Phương Đình Dư Địa
Chí” của Nguyễn Siêu đời Tự Đức, nói về tỉnh Khánh Hòa, ghi rõ rằng: “Năm Quý
Sửu đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Quy Nhơn, lúc ban sư đắp
thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên
hiểm, tục gọi là Nha Trang thành.” [2]
Như
thế, Nha Trang dùng gọi thành Diên Khánh từ thời Gia Long và mới dùng gọi tỉnh
lỵ từ ngày Pháp đặt nền đô hộ ở Trung Việt.
Trong
Đại Nam Nhất Thống Chí của Cao Xuân Dục soạn triều Duy Tân cũng có nói đến Nha
Trang. Song không phải tên thành phố mà tên một nguồn của con sông Cù Giang:
Nguồn Nha Trang. [3]
Như
thế nhất định Nha Trang không phải do Nhà Trắng mà ra vậy.
B
Nha Trang không phải là một thành phố thương mãi, mà
là một thành phố du lịch, một thành phố thừa lương. Cho nên muốn thưởng thức
cảnh thú của Nha Trang phải tìm nơi thiên nhiên chớ đừng tìm nơi nhân xảo.
Thành
phố Nha Trang thời Pháp thuộc chỉ bằng một phần ba thành phố hiện thời. Phố xá
và gia cư của người Việt người Tàu chen chúc từ ga xe lửa đến Chợ Đầm (tức chợ
cũ Nha Trang). Còn người Pháp ở dọc theo bờ biển, từ tòa Sứ (tức tòa Hành Chánh
hiện nay) cho đến Đại Khách Sạn (Grand Hôtel).
Vùng
Mả Vòng chưa có nhà cửa. Truyền rằng xưa kia là vùng cổ mộ nằm trong một vòng
thành xây bằng đá núi, hình nguyệt mãn, cao đến rún. Trông đã xưa lắm nhưng vẫn
còn nguyên vẹn dưới nhiều lớp rêu xanh. Đi lại đi qua, người ta tránh ra một
phía. Đến khi người Pháp mở đường Quốc Lộ số 1, mới dời mộ đi nơi khác và phá
hủy vòng thành. Nơi nầy rất nhiều ma. Sau khi mả đã dời rồi mà người ở quanh
vùng vẫn thường thấy bóng ma thấp thoáng, và những đêm trăng mờ gió lạnh lại
còn nghe tiếng than khóc não nùng. Cho nên khi mặt trời đã chìm tây thì ít
người dám lai vãng.
Vùng
Phước Hải cũng là vùng hoang vắng. Nhà cửa thưa thớt. Một phần lớn diện tích là
rừng hoàng mai. Mùa xuân hoa nở ánh cả vùng. Nhưng không có người đến chặt về
cắm bình hoặc thưởng cảnh. Vì cọp ở Đồng Bò thường ra để kiếm mồi.
Vịnh
Nha Trang, nhà Nho Thuần Phu Trần Khắc Thành có câu: [4]
Mả Vòng đêm
vắng ma trêu nguyệt,
Phước Hải rừng
xuân cọp thưởng mai.
Tuy
là ngụ ý châm biếm nhân vật đương thời, câu thơ vẫn cho chúng ta thấy rõ quang
cảnh Nha Trang thời người chưa đông đất còn trống.
Trong
bài Tặng Biệt của một nhà chí sỹ làm vào khoảng Thành Thái Duy Tân (1889-1916)
có câu:
Đại Lãnh văn viên cô nguyệt hạ,
Nha Trang xạ
hổ loạn vân gian
Nghĩa
là:
Đại Lãnh nghe vượn, lạnh lẽo bóng
trăng soi
Nha Trang bắn
hùm, rộn ràng tầng mây thẳm.
Câu
nầy chứng minh rằng chuyện cọp ra Rừng Mai Phước Hải là chuyện thật vậy.
Bên
cạnh rừng mai, còn có rừng dương liễu. Rừng có hai cánh, một trải trên vùng hỏa
xa hiện thời, một giăng từ sân tàu bay hiện thời cho đến Chụt.
Cũng
như rừng mai Phước Hải, rừng dương liễu là một giai cảnh của Nha Trang. Rừng
mai phơi vàng, rừng dương buông lục. Nhưng rừng mai chỉ đẹp về mùa xuân. Còn
rừng dương bốn mùa đều đẹp. Một bên do trời sanh và không có người chăm sóc.
Một bên do người trồng và được sở kiểm lâm trông coi. Cho nên khi rừng mai đã
bị phá để lấy củi hoặc lấy đất, thì rừng dương liễu vẫn còn tươi tốt cho đến
ngày nổi chiến tranh. Nhưng, hiện nay cả hai chỉ lưu lại hình bóng mơ màng
trong những vần thơ thời Tiền Chiến:
- Biển Én sóng vờn trăng thúy
liễu, [5]
Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai.
- Nước non vẫn thắm mày dương
liễu,
Mưa nắng riêng gầy vóc lão mai.[6]
Và
trải bao nhiêu gió sương, tình vẫn còn đượm đà trong bài:
NHA
THÀNH MAI LIỄU
Mấy
xuân mai liễu sum vầy,
Liễu
mai còn đó xuân nầy vắng ai!
Đeo
sầu gầy gọ vóc mai,
Nhớ
thương tóc liễu biếng cài mái xanh.
Gió
hương thổi khắp Nha Thành,
Chiêm
bao luẩn quẩn bên mành trăng soi!
Lượng
xuân chẳng lẽ hẹp hòi,
Để
cho mai liễu thiệt thòi tuổi xuân!
(Trường Xuyên)
Rừng
mai có trước rừng dương liễu đã lâu đời. Nhưng đến khi có người biết đến chân
giá trị thì rừng mai chỉ còn lưa thưa vài ba gốc, lại ở trong nơi xa xôi hẻo
lánh không tiện đường tới lui. Bởi vậy nên tiếng không được nổi bằng rừng dương
liễu nằm ngay bên đường quan lộ, ngày ngày không ngớt kẻ lại qua.
*
* *
Cùng
rừng dương liễu làm cho Nha Trang nổi danh là “Vùng cát trắng dương xanh” trong
toàn quốc:
Về vùng cát trắng dương xanh.
Cho đây gởi gắm tâm tình chút
nao?
Từ phen biển dậy ba đào,
Non xa ngắm bóng trăng sao ngại
ngùng.
(Nhắn bạn Nha thành T.X.)
Đó
là bãi biển Nha Trang vậy.
Bãi
biển Nha Trang, theo lời du khách đã ra Bắc vào Nam, thì là một bãi biển đẹp
nhất trong toàn quốc.
Bãi
biển vừa rộng vừa dài. Hình giống một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra Xóm Cồn,
mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng.
Cát
vừa trắng vừa mịn như đường cát trắng Đồng Xuân ở Phú Yên. Rờ vào nghe mát rợi.
Cho nên có bài hát rằng:
Bãi biển Nha Trang: mịn màng
trắng trẻo,
Trăng trong leo lẻo, Gió mát
thanh thanh.
Đêm đêm thơ thẫn một mình,
Đố sao cho khỏi vướng tình nước
mây.
Tự bản thân, bãi biển trông đã đa tình đã quyến rũ,
huống hồ còn được nhiều cảnh vật bên ngoài điểm xuyết thêm: Những khóm dừa xanh
đứng ngay hàng, làm tàn che nắng ban trưa, che sương ban tối... Những bồn hoa
tư mùa xanh tốt, những biệt thự có vườn tược bao quanh, những rừng dương liễu
linh động nhưng yên lành, chạy dọc theo con đường Duy Tân ven biển; những cảnh
nhân tạo trong thiên nhiên ở phía Đông Nam: ngọn Cảnh Long với những lâu đài ẩn
hiện trong cây đá; những ngọn núi ở tận ngoài xa xôi nhưng trông như gần gũi,
trùm bóng lên dãy núi Cù Lao thâm thấp ở phía Đông Bắc và lác đác nơi sườn màu
ngói đỏ màu vách trắng của dãy Nhà Dòng Phan Xi Cô (Fancico), nhà dòng La San.
Và ngay trước mặt ở phía Đông, những hòn lao xanh, hòn to hòn nhỏ, hình thù
khác nhau sắc thái khác nhau, nổi trên mặt sóng xanh, dựa vào lưng trời xanh,
man mác bát ngát... Khung cảnh ấy làm nổi bật bãi cát trắng trẻo, mịn màng...,
làm cho bãi cát đã có duyên càng thêm duyên, đã có sắc càng thêm sắc, giá trị
gia tăng bội phần.
Một
nhà thơ ví bãi biển Nha Trang với một giai nhân dòng cự tộc. Giá trị chẳng
những ở tư đức tư dung, mà còn ở nơi gia đình, nơi họ hàng bên nội bên ngoại.
Và
vẻ đẹp của bãi biển Nha Trang, giá trị của bãi biển Nha Trang mỗi lúc mỗi khác.
Buổi
sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng,
trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ ảnh hưởng, cũng
trở nên huy hoàng lộng lẫy.
Buổi
trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây
cối núi non là những người đứng canh giữ.
Buổi
chiều, tất cả biển trời cây đá đều trở thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm
màn bạch sa mỏng và sưa.
Còn
bãi biển là một tố nữ trần thân nằm im lìm ngắm cảnh giàu sang của trời tặng.
Ban
đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân. Và ánh đèn câu ngoài
khơi lại làm giàu thêm cho cảnh.
Nếu
trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm
nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương.
Nếu
trời không trăng, thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích bảo hoàng bảo,
một nửa trải dưới nền một nửa phất trên trần, trong một đền thờ của người Ấn.
Ngắm
cảnh giàu sang lúc ban đêm không phải là bãi biển như lúc ban ngày, mà chính là
du khách, du khách ưa thích cảnh giàu sang mà không bao giờ muốn chiếm hữu.
Ngoài
cảnh đẹp thiên hình vạn trạng của thiên nhiên, bãi biển Nha Trang còn có gió
mát.
Bãi
biển nào lại không có gió mát?
Đúng
vậy, nhưng gió Nha Trang có một khí mát đặc biệt, một khí mát dịu dịu, êm
êm..., một khí mát “trung hòa” của ngà voi, của đá cẩm thạch, khác với khí mát
của Vũng Tàu, của Quy Nhơn, của Sầm Sơn, của Hạ Long..., nơi nào cũng có phần
“quá khích” hoặc nhiều hoặc ít, chứ không mấy nơi “theo đúng thuyết Trung Hòa của
Đông phương”.
Thú
vị nhất là gió buổi trưa mùa hạ.
Nằm
dưới bóng soan nở đỏ, hoặc dưới bóng dừa buông xanh, nhìn ra biển khơi, du
khách có cảm giác đương nằm dưới gốc cây đa, cây sanh ở thôn quê, nhìn ra đồng
lúa mới chín tới, bên trên vàng ánh, bên dưới xanh um, và ngọn nồm thổi qua,
sóng chao vàng xanh lẫn lộn.
Trong
khí mát lại dường như có chất bổ. Người đương mệt mỏi, ra ngồi nơi bãi trong
giây lát thì tâm thần liền thấy dễ chịu ngay. Cho nên người ở bốn phương thường
lấy Nha Trang làm nơi dưỡng bệnh.
Nhưng
quang cảnh ấy, phong thú ấy, là quang cảnh phong thú ngày xưa, ngày mà “vùng
trời đất chưa nổi cơn gió bụi”. Chớ hiện nay, những bồn hoa không còn tốt tươi,
những rừng dương đã bị đốn trụi. Và trên bãi biển, mấy chục quán “bar” đã chiếm
hết những “yếu điểm”, đã làm thương tổn vẻ đẹp thiên nhiên bằng những kiến trúc
phản nghệ thuật, đã làm ô uế cát trắng nước trong bằng những đồ thừa thãi, đồ
cặn bã của thú ăn chơi.
Dù
yêu phong cảnh đến đâu cũng không ai dám ra nằm lăng trên bãi cát để “ôm gió
nước vào lòng”, hoặc để tưởng mình đương nằm dính lưng vào lưng trời, nhìn
xuống biển khơi xem đèn câu lấp lánh.
Một
đôi khi quên cảnh trước mặt, dấn bước đi lang thang, thì hoặc ít hoặc nhiều.
Thế nào chân cũng dậm phải ruột gan của đám người lấy huỳnh kim làm lý tưởng.
Bãi biển Nha Trang hiện thời thật chẳng
khác một cô xuân nữ bị cưỡng bách vào thanh lâu, mà những quán “ẩm thực” kia là
những mụt phong tình mọc trên tấm thân ngà ngọc.
Mong
một ngày nào đó Long Vương sai sóng thần lên quét sạch những xú uế, để cho bãi
Nha Trang lấy lại quang cảnh và phong phú của nghìn xưa. Ngày đó chắc không
lâu, vì điềm thái hòa đã ứng lên những mụt tường vân ngoài biển.
C
Cuộc Đất của Nha Trang, theo các nhà Phong Thủy tức
Thầy Địa, là một đại cuộc: Tứ thủy triều quy, tứ thú tụ.
Tứ
thủy triều quy là bốn mặt có nước bao bọc:
Hai
phái Nam và Bắc của con sông Nha Trang, phái chảy vào Cửa Bé, phái chảy xuống
Cửa Lớn, ôm choàng lấy cuộc đất, mà phía Đông là biển khơi.
Tứ
thú tụ là mượn bốn hòn núi tượng hình bốn con thú tụ hợp lại để giữ gìn anh
khí:
-
Núi Cảnh Long ở Chụt là Con Rồng. Vì núi chạy dài từ Cửa Bé ra Cầu Đá dọc theo
mé biển và đến Cầu Đá núi lại chạy thẳng ra biển, nên gọi là “Thanh long hý
thủy” nghĩa là Rồng xanh giỡn nước [7].
-
Hòn Sanh Trung ở Hà Ra là Con Voi. Vì núi đứng cạnh đầm Xương Huân, nên gọi là
“Bạch tượng quyện hồ” nghĩa là voi trắng cuốn hồ 2.
-
Hòn Trại Thủy là Con Giơi. Vì trước núi, tại “đầu giơi” có một bàu nước hình
tròn như nguyệt 3 nên gọi là “Ngọc Bức hàm hoàn”, nghĩa là Giơi Ngọc
ngậm vòng.
-
Hòn Hoa Sơn, tục gọi là Núi Một, ở Nha Trang Tây, đường Phước Hải, là Con Rùa.
Vì trên núi có ngọn cổ tháp, nên gọi là “Kim quy đới tháp”, nghĩa là Rùa Vàng
đội tháp.
Cuộc
đất phát đại phú đại quý.
Nhưng
rồi phái Nam sông Nha Trang bị lấp, cổ con thanh long và con kim quy bị cắt,
long mạch bị tổn thương. Long mạch mới bị tổn thương chớ chưa dứt hẳn, nên nhân
dân sở tại dù không phát đại phú đại quý, nhưng vẫn sung túc phong lưu, và trải
bao phen khói lửa dậy nơi nơi, Nha Trang vẫn được yên ổn hơn đâu hết.
Bốn
“Con thú” của cuộc đất cũng là bốn thắng cảnh của Nha Trang.
Ba
cảnh Thanh Long, Bạch Tượng, Ngọc Bức chúng ta đã thưởng thức khi đi dạo núi
sông.
Ở
đây xin nói riêng về cảnh Kim Qui.
Kim
Qui hiện nay đã biến dạng hẳn.
Con
đường Phước Hải đã chia khúc đầu và khúc mình con rùa ra làm hai. Khúc đầu bị
đào phá không còn ra dáng ra hình gì cả. Còn khúc mình thì đã đẽo thành một con
dấu hình thuẫn úp sấp.
Trên
đầu rùa còn một cổ tháp.
Trên
mình rùa đứng sừng sững ngôi nhà thờ Nha Trang.
Đời
Lê Cảnh Hưng (1740-1786) núi Hoa Sơn còn hình Kim Quy, một thiền sư pháp danh
Phật Ấn đến cất một am tranh tu khổ hạnh. Năm Bính Ngọ (1786) thiết hỏa đàn trà
tỳ [8]. Đệ
tử thâu xá lợi lập Liên Hoa tháp [9].
Ngọn
cổ tháp trên “đầu rùa” là tháp của thiền sư.
Khi
người Pháp chiếm cứ Nha Trang, trên núi Hoa Sơn chỉ còn trơ trọi ngọn cổ tháp.
Và nơi “cổ rùa” chỉ có một con đường nhỏ để vô ra. Mãi sau người cầm quyền mới
đào sâu phá bằng để làm con đường Phước Hải.
Ảnh: Mai Lĩnh
|
Hiện
nay là nhà Thờ Chánh Tòa của địa phận Nha Trang.
Kiến
trúc ngôi nhà thờ Nha Trang không giống phần đông nhà thờ khác trong toàn quốc.
Kiểu thức vừa cổ kính vừa tân kỳ. Tất cả vách, mái, nền, cột đều toàn xi măng.
Và đứng chắc trên một đầu non, với “bộ áo xám tro”, hình tướng trông nửa như
khiêm nhường, nửa như ngạo nghễ. Lại gần nhìn kỹ lại có vẻ nghiêm khắc cô cao.
Nhờ những khóm trúc đào hoa nở quanh năm ở trước sân, nhất là khóm đa xanh mát
đứng che Tiểu Vương Cung của đức Bà Maria ở đầu bậc cấp bước lên, làm cho “nét
mặt” nhà Thờ bớt phần khô khan lạnh lạt.
Lầu
chuông cao ngất!
Lên
đứng nơi gác chuông nhìn ra bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố
Nha Trang. Trông tới ngó lui, nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi
hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm
điểm của vũ trụ.
Cho
nên nhà Thờ Chánh Tòa Nha Trang cũng là một danh thắng của địa phương vậy.
* * *
II
Xem xong các danh thắng trong thành phố, thì lần
lượt đi thăm các nơi ngoài thành phố. Tiện đâu xem đó, không phân ranh giới
thắng cảnh và cổ tích.
A
Trước hết nên đi xem Tháp Bà, một nơi xưa cũng thật
là xưa, mà đẹp cũng thật là đẹp, một nơi tiêu biểu nhất cho thắng cảnh cổ tích
của miền Cát Trắng Dương Xanh.
THÁP BÀ
Tháp
xây trên một ngọn đồi trong vùng núi Cù Lao.
Núi
cao chừng vài ba chục thước, hình như một chiếc nón lá úp sấp, cây cối tươi
xanh. Phía Nam giáp sông Nha Trang, phía Tây và phía Bắc giáp núi và đồng bằng,
trước mặt thì làng Cù Lao (Xóm Bóng) và biển Nha Trang.
Tháp
gồm có bốn ngọn. Ba ngọn nhỏ một ngọn lớn. Ngọn lớn ở phía Bắc, cao đến 23
thước. Theo nhà khảo cổ Henri Parmentier thì tháp nầy do vua Chiêm Thành là
Harivarman 1er xây vào đầu thế kỷ thứ IX. Còn các ngọn khác thì xây vào khoảng
thế kỷ thứ VII, thứ VIII.
Trong
ngọn tháp lớn nhất thờ nữ thần xứ Kaut Hara (Cù Huân) là Poh Nagar (hay Pô Ino
Nogar) mà người Việt gọi là Thiên Y A Na.
Tượng nữ thần bằng đá xanh, cao lớn,
ngồi xếp bằng trên một bệ cao rộng, cũng bằng đá xanh nguyên khối. Thần có 10
cánh tay. Hai tay đặt trên đầu gối, lòng bàn tay để ngửa. Còn tám tay khác thì
giơ lên hình rẻ quạt và mỗi tay cầm một món binh khí, như đoản đao, giáo, ná,
tên v.v... Y phục khắc theo kiểu chúng ta thường thấy ở các tượng đá của Chiêm
Thành. Nghĩa là rất đơn giản: đầu đội mão triều thiên, nhọn như mũ vũ nữ Thái
Lan thân chỉ che đôi mảnh xiêm y ở hạ thân và ở ngực. Nét chạm trổ cực kỳ tinh
vi vừa sắc sảo vừa dịu dàng, trông như người sống. Nhưng rất tiếc là người Việt
nam lấy sơn sơn mặt tượng, rồi vẽ mày vẽ mặt một cách vụng về, lại choàng vào
thân áo cẩm bào đội lên đầu một chiếc ngọc miện, hoa hòe lòe loẹt, trông như
một tượng gỗ, một tượng đất do thợ tay ngang tạc nên. Về mặt mỹ thuật thì bị
giảm sút. Nhưng về tinh thần dân tộc thì gia tăng, vì tượng thần đã hoàn toàn
Việt Nam hóa, trông vào không còn chút dấu tích gì về Chiêm Thành.
Thiên
Y A Na có một sự tích ly kỳ. Truyền rằng:
Xưa
kia tại núi Đại An (tức Đại Điền hiện tại) có hai vợ chồng ông tiều đến cất nhà
và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất. Một hôm ông
rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chín mười tuổi hái dưa, dồi giỡn dưới trăng.
Thấy cô gái dễ thương, ông đem về nuôi, hai ông bà vốn không con cái, nên đối
với thiếu nữ thương yêu như con ruột.
Một
hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, thiếu nữ lấy đá chất thành ba
hòn giả sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của
con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một
tiên nữ giáng trần đương nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực! Nhân thấy khúc kỳ
nam theo nước nguồn trôi đến, tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho
sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay
ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ, rủ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau
khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.
Thái
Tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực. Thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì
nặng đến nổi không giở lên, Thái Tử bèn lấy tay nhắc thử. Chàng hết sức lạ lùng
vì nhận thấy khúc gỗ nhẹ như tờ giấy! Bèn đem về cung, trân trọng như một bảo
vật.
Một
đêm, dưới bóng trăng mờ, Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ
nam. Nhưng lại gần xem thì tư bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất một mùi hương
thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem suốt mấy đêm liền không hề
thấy gì khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im
phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt, từ trong
khúc kỳ nam bước ra. Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân
đành theo Thái Tử về cung và cho biết rõ lai lịch.
Giai
nhân xưng là Thiên Y A Na.
Thái
Tử vốn đã trưởng thành, nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý.
Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường, bèn tâu cùng phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà
vua sai bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát”, liền cử lễ thành hôn.
Vợ
chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai một gái, trai
tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.
Thời
gian qua trong êm ấm. Nhưng một hôm, lòng quê thúc giục, Thiên Y bồng hai con
nhập vào khúc kỳ nam, trở về làng cũ.
Núi
Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm. Thiên Y bèn xây đắp mồ mả
cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà
đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa: dạy cày cấy, dạy kéo vải dệt sợi..., và đặt
ra lễ nghi... Từ ấy ruộng nương mở rộng, đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi
thêm phú túc phong lưu. Công khai hóa của bà chẳng những ở trong địa phương, mà
các vùng lân cận cũng được nhờ.
Rồi
một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh, một con chim hạc từ trên
mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.
Nhân
dân địa phương nhớ ơn đức, xây tháp tạc tượng phụng thờ. Và mỗi năm vào ngày bà
thăng thiên, tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.
Ở
Bắc Hải, Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về, bèn sai một đạo
binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đến nơi thì bà đã về Bồng
Đảo. Người Bắc Hải ỷ đông, hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói
dối, bèn hành hung. Lại không giữ lễ, xúc phạm thần tượng. Nhân dân bèn thắp
hương khấn vái. Liền đó gió nổi đá bay, đánh đắm đoàn thuyền của Thái Tử Bắc Hải.
Sự
tích nầy, cụ Phan Thanh Giản chép lại thành một bài ký và bố chánh sứ tỉnh
Khánh Hòa là Nguyễn Quýnh khắc bia dựng phía sau tháp.
Nhưng
đó là sự tích của người Việt Nam truyền tụng.
Sự
tích của người Chiêm Thành khác hẳn:
Poh
Nagar là một nữ thần do ánh mây và bọt nước biển biến sanh. Bà sinh ra với một
tấm thân cân đối, một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời và chói rọi hào quang. Bà
sinh ra tận ngoài biển khơi. Nước biển dâng cao đưa bà vào bến Yjatran. Sấm
trời và gió hương nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Liền đó
những khe suối trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống mừng Bà, và núi hạ mình
thấp xuống để đón rước Bà. Bà bước lên bờ. Cây cong cành xuống sát đất để tỏ
lòng thần phục. Chim muông kéo nhau đến chầu hai bên đàng cái. Và hoa cỏ vươn
lên để điểm hương vào bước chân bà đi.
Đến
Yjatran, Bà dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương kỳ nam, các
giống gỗ quý và lúa bắp. Để cúng Trời, Bà tung lên mây một hột lúa. Lúa mọc hai
cánh trắng như hai mảnh bạch vân, bay ở giữa không trung. Bà lại đốt một phiến
trầm hương, khói thơm tỏa lên cao vút, đỡ hột lúa có cánh về dâng cúng Trời.
Nơi
hậu cung Bà có 97 ông chồng. Nhưng chỉ có ông Pô Yan Amo là có uy quyền và được
trọng vọng hơn cả. Bà sanh được 38 nữ thần, người nào cũng xinh đẹp. Song chỉ
có 3 người được bà ban cho nhiều quyền phép là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih, nữ
thần vùng Phan Rang, và Pô Bia Tikuk, nữ thần vùng Phan Thiết.
Sự
tích của người Chiêm Thành phản ảnh chế độ mẫu hệ của người Chàm ngày trước.
Sự
tích của người Việt Nam biểu lộ tinh thần dân tộc rất sâu đậm và cho chúng ta
thấy người xưa xem nghĩa đồng bào nặng hơn tình gia đình nhiều lắm.
Bà
Poh Nagar hay Thiên Y A Na thờ ở ngọn tháp chính, ở phía Bắc.
Ngọn
thứ hai, ở chính giữa, thờ thần Cri Cambhu.
Tháp
xây từ thế kỷ thứ VII và trong tháp có tượng bằng vàng khối. Vào cuối thế kỷ
thứ VIII, người Mã Lai xâm nhập xứ Kaut Hara, cướp mất tượng vàng và phá hủy
ngọn tháp. Vua Satyavarman xây tháp lại và tạc tượng đá thay tượng vàng. Tượng
nhỏ, hiện còn tốt.
Người
Việt Nam bảo đó là đền thờ Thái Tử Bắc Hải, chồng bà Thiên Y A Na.
Ngọn
thứ ba, ở phía Nam, đứng ngay hàng cùng hai ngọn trước, thờ tượng Linga, biểu
hiệu của thần Sandhaka.
Người
Việt Nam bảo đó là đền thờ ông Tiều, nghĩa phụ bà Thiên Y.
Ngọn
thứ tư, đứng phía sau tháp thờ bà Thiên Y. Trong tháp không có tượng mà chỉ có
đế thờ (có lẽ tượng bị thất lạc lúc người Ma Lai vào cướp phá). Tháp nầy thờ
thần Ganeca.
Người
Việt Nam bảo đó là đền thờ Công Chúa Quý.
Còn
hai tháp nữa cũng ở sau lưng dãy tháp trước, không biết rõ thờ vị thần nào của
Chiêm Thành.
Người
Việt Nam bảo đó là đền thờ bà Tiều, nghĩa mẫu của Bà Thiên Y, và hoàng tử Tri.
Tháp đã bị hư nát, chỉ còn nền và một số gạch vụn. Bà Tiều đưa về thờ chung
cùng ông Tiều ở tháp thứ ba. Hoàng tử đưa về thờ chung cùng Công chúa ở tháp
thứ tư.
Phía
trước tháp, dưới chân đồi lại có mấy hàng cột cao lớn bằng gạch. Truyền rằng đó
là những cột chống vũ đài. Mỗi khi có lễ, người ta dùng ván gác lên trên cột
thành một sân gỗ rộng. Vũ nữ và ca công lên ca múa trên sân gỗ. Thần trong tháp
ngồi trông ra, nhân dân đứng dưới trông lên, đôi bên trông đều rõ. Nhưng đó là
về thời người Chiêm Thành còn làm chủ đất đai. Từ ngày người Việt Nam thay
người Chiêm Thành, thì những cuộc ca vũ tổ chức ngay ở trên sân tháp.
Bốn
ngọn tháp Cù Lao, theo tên các vị thần, là đền thờ của người Chiêm theo đạo Bà
La Môn. Bà Poh Nagar là một biến thân của thần Civa, một trong ba chúa tể vũ
trụ của đạo Bà La Môn.
Nhưng
từ khi tháp thuộc quyền sở hữu người Việt Nam các thần Bà La Môn nhường ngôi
cho các vị thần Việt tịch và bà Chúa Xứ Poh Nagar hiển linh dưới danh hiệu
Thiên Y A Na và nhận ân tứ của vua nước Việt.
Vua
Gia Long phong tặng “Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đẳng Thần” và cắt dân làng
Cù Lao ba người sung làm từ phu. Các đời vua sau, đời nào cũng có phong tặng.
Người
địa phương, ngoài danh hiệu Thiên Y A Na, thường tôn xưng là “A Na Diễn Bà Chúa
Ngọc Thánh Phi” và gọi tắt là bà “Chúa Ngọc”.
* * *
Sau khi xứ Kaut Hara sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam,
người Chàm bỏ đi hết, và tuyệt nhiên không bước chân đến tháp Poh Nagar. Gặp
những người Chàm ở Phan Rang ra buôn bán ở Nha Trang, hỏi về tháp, họ đáp một
cách cụt ngủn “không biết” rồi ngó ngơ. Thái độ ấy chứng tỏ rằng họ không ưa nghe
tên ấy. Hoặc giả vì tên tháp gợi cảnh diệt vong của giống nòi, hoặc giả họ
không phải là người theo đạo Bà La Môn mà là người theo Hồi Giáo.
Tháp
Chàm bị người Chàm hờ hững!
Trái
lại, phần đông người Khánh Hòa và một số đồng bào ở các tỉnh di cư đến, lại gởi
trọn niềm tín ngưỡng nơi tháp, nhất là các bà các cô.
Ngày
rằm và mồng một, người đến lễ bái chật trong chật ngoài.
Thời
Tiền Chiến, đến ngày vía Bà (ngày 3 tháng 3 âm lịch) nhân dân địa phương tổ
chức lễ cúng tế rất long trọng. Ban đêm có lệ múa bóng ở trước sân tháp.
Điệu
múa Bóng là điệu múa của Chiêm Thành truyền lại.
Người
múa toàn là con gái. Áo xiêm rực rỡ; đầu đội, người cỗ hoa tươi, kẻ đèn lồng
ngũ sắc. Đèn và hoa chồng cao như ngọn tháp. Vũ nữ múa theo điệu đàn điệu
trống, đoanh lộn nhịp nhàng dưới ánh đuốc ánh đèn hừng hẫy. Họ múa rất khéo và
rất tài. Chẳng những đôi tay đôi chân luôn luôn cử động, vừa dẻo vừa mềm, mà
đầu và thân cũng luôn luôn ngửa nghiêng uốn éo theo bước chân nhịp tay, rộn
ràng đều đặn. Thế mà đèn và hoa đội trên đầu, không vịn không đỡ mà vẫn không
hề lay không hề dịch, dường như có những bàn tay vô hình đỡ nâng.
Cảnh
tượng vô cùng ngoạn mục.
Tổ
chức múa Bóng do người xóm trước tháp phụ trách. Những vũ nữ phần nhiều là
người trong xóm. Trường dạy múa cũng ở trong xóm. Cho nên xóm mệnh danh là Xóm
Bóng thuộc làng Cù Lao.
Lệ
Múa Bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến.
Nhân
đó có câu hát:
Ai về Xóm Bóng thăm nhà,
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn
chăng?
Thế thường tre lụn còn măng,
Lẽ đâu tham đó bỏ đăng cho đành.
Lệ
Múa Bóng tuy bỏ nhưng ngày vía Bà vẫn tổ chức long trọng. Người đến dâng hương
xin xăm chật trong chật ngoài.
Nhưng
không tưng bừng rộn rịp bằng đêm Giao Thừa.
Đêm
Giao Thừa ở Tháp Bà có thể gọi là kỳ thú.
Khách
du quan muốn thưởng thức thú vị cho đầy đủ thì đêm tất niên phải dưỡng sức để
lúc đồng hồ điểm 12 giờ thì đi bộ sang Tháp.
Phải
đi bộ mới tận hưởng được những gì đáng hưởng khi trời đất bước vào xuân. Khí
trời đương lạnh tự nhiên thấy ấm, một khí ấm đặt biệt, dìu dịu thưng thưng,
trong trong lại mát mát. Lại phảng phất một mùi hương thanh thanh: hương trầm,
hương kỳ nam từ rừng sâu đưa đến, hay hương nhang hương hoa từ trong nhà trong
chùa bay ra? Tắm mình trong bầu không khí yên lặng, vừa ấm vừa mát, vừa trong
vừa thơm, du khách cảm thấy tâm cũng như thân tự nhiên thanh thảnh nhẹ. Bao
nhiêu hận thù, bao nhiêu phiền não đều tan sạch. Cõi lòng từ từ mở rộng để đón
phút thiêng liêng mới bắt đầu.
Cảnh
cũng như người đều dũ sạch những bợn trần của năm cũ. Núi non trông biếc thêm,
sông biển trông trong thêm. Và những chòm cây muồng hòe ở hai bên đường, những
khóm lau khóm dứa ở nơi bãi vắng, đầy đặc cả đom đóm.
Có
thể nói rằng đom đóm ngự trị cả nước non.
Và
cũng có thể bảo rằng bao nhiêu sao trên trời đều sa xuống đọng nơi cây cối.
Ánh
vàng làm chúa tể thay bóng tối đêm ba mươi. Nhìn trước: ánh vàng. Ngoảnh sau:
ánh vàng. Trông sang tả: ánh vàng. Ngó sang hữu: cũng ánh vàng. Từ Cầu Hà Ra
qua đến Xóm Bóng, du khách có cảm giác đi ngang qua một rừng sao.
Nhưng
rừng sao ở đây không đứng yên mà luôn luôn cử động. Hễ vùng nầy sáng thì vùng
kia tắt, vùng nầy tắt thì vùng kia liền sáng. Cứ sáng, tắt, tắt, sáng... luân
phiên, liên tục, không mau, không chậm, đều đặn, nhịp nhàng.
Quanh
đồi Cù Lao và trên những lùm cây ở mé sông cạnh tháp, cũng đầy cả đom đóm. Ánh
vàng cũng rực rỡ, dấp dới lung linh. Và trên tầng ánh sáng khi khuất khi hừng,
bốn ngọn tháp nửa quyến cây xanh nổi bật lên nền trời cao, uy nghiêm nhưng hiền
hậu.
Ảnh: Huỳnh Nam |
Từ
dưới chân đồi lên đến sân tháp, người đông như kiến, chen chúc nhau, nối tiếp
nhau. Người tuy đông, nhưng không ồn ào lộn xộn. Phần nhiều các bà các cô,
dường như lắng lòng mình lại, để lúc dạo vườn hái lộc, vào tháp xin xăm, dễ
cùng thần linh giao cảm.
Trong
tháp chật ních người lễ bái. Hương tỏa mịt mù làm mờ cả hàng trăm cây đèn sáp
cháy cao ngọn. Những luồng khói thơm tuôn ra cửa, ra nơi lỗ trống trên đỉnh
tháp, ngạt ngào trong gió và lưởng vưởng trên đầu cây cao như những làn sương
mỏng. Những tiếng chuông tiếng trống trong tháp bay ra, không rền vang như
tiếng trống chùa miễu, tiếng chuông nhà thờ, mà vì vách tháp dày, cửa tháp hẹp,
nghe mơ hồ phảng phất như có như không.
Những
người vào tháp, phần hơi nóng của đèn hương, phần hơi thở của xương thịt, không
thể nào ở lâu được năm mươi phút, nếu không có lòng thành kính hộ trì. Riêng
những người râm đi bẻ những cành xanh tươi quanh tháp là vui vẻ thảnh thơi. Đàn
ông đàn bà, con trai con gái, ai nấy đều hớn hở tươi cười. Nhưng không một
tiếng ồn,không một bước mạnh. Đi qua mặt nhau, êm đềm lặng lẽ như bóng mây qua.
Quang
cảnh thật là huyền mơ! Và bầu không khí thiêng liêng bao trùm cả cảnh vật.
Đứng
trước cảnh có thể gọi là thần tiên ấy, con người dường như trở nên thuần hậu,
khoan hòa. Cho nên từ trước đến nay, chưa hề xảy ra những chuyện không tốt
không lành mà những nơi đông người thường hay có. Và vì lòng người đã dẹp bớt
được tham sân si để hòa mình với cảnh, nên lá xăm, nắm lộc buổi đầu năm rất
linh nghiệm. Do đó lòng tín ngưỡng bà Thiên Y A Na gia tăng. Và việc “đi Tháp
Bà” đêm giao thừa đã thành một cái lệ. Thời Tiền Chiến đã đông, thời Hậu Chiến
còn đông gấp bội.
Riêng
tiếc, hiện nay xe ô tô, mô tô quá nhiều, nên trên con đường từ Nha Trang sang
Xóm Bóng không được yên tịnh như trước. Thời Tiền Chiến, những người giàu có
qua tháp chỉ dùng xe tay hoặc xe đạp. Cho nên lòng người có thể giữ được thanh
tịnh ngay trong lúc xuống đường.
Và
cũng rất tiếc lúc nầy đom đóm không sanh sản được nhiều. Không biết vì thời
tiết thay đổi, hay vì bột DDT, thuốc diệt trừ sốt rét... đã làm cho giống vật
có thứ lửa không nóng, có tấm lòng cẩm tú kia bị tiêu diệt lần lần?
Tuy
vậy tiếng ồn ào của xe cộ chỉ làm rộn một khoảng đường đi, chớ không thể phá
nổi cảnh thanh tịnh của đêm khuya, vẻ u huyền chung quanh tháp. Và những ánh
đèn nê-ông trong sương mờ, trên mặt sóng sông sóng biển, lung linh phiếu diếu,
cũng tạo nên cảnh sắc đầy mộng đầy thơ.
Cho
nên, nay cũng như xưa cảnh giao thừa ở Tháp Bà vẫn đông đúc. Những người không
thích hái lộc, không thích xin xăm, cũng vui vẻ đến tháp để thưởng thức cảnh
trời đất vừa đổi mới. Sanh ý của kiền khôn dường như phát xuất nơi đây. Dường như
chỉ nơi đây mới thấy rõ vẻ trinh nguyên của tạo hóa, mới thấy rõ sắc tướng của
giao thừa.
B
Nhưng
cảnh thú của giao thừa nơi Tháp Bà chỉ dành riêng cho những người ở gần tháp,
và những người ở gần tháp mỗi năm chỉ được hưởng có một lần.
Chung
cho mọi người, và lúc nào cũng thưởng thức được, là bản thân của tháp và phong
cảnh chung quanh.
Cách
xây tháp Poh Nagar, không khác các tháp khác ở Bình Định, Phan Rang. Cách bài
trí cũng tương tợ. Nơi tháp thờ thần Poh Nagar, ngoài thần tượng trong tháp ra,
nơi khung cửa bằng đá xanh nguyên khối ở trước tháp, một bức tường chạm nổi rất
linh động. Đó là tượng thần Civa, thần bốn tay, một chân đạp trên đầu một con
thú dị hình, một chân đương nhảy múa giữa hai nhạc công thổi địch. Hình chạm,
nhưng nhìn vào, chúng ta có cảm giác là mềm dẻo như người vũ nữ bằng da thịt.
Những hình tượng nơi các tháp khác nét đẽo gọt chạm trổ có phần thô phác chớ
không được tinh vi bằng hình tượng nơi tháp thờ Poh Nagar.
Nhìn
qua cách thức xây tháp, nét chạm khắc các tượng đá, chúng ta có thể đoán biết
được trình độ nghệ thuật của Chiêm Thành.
Còn
phong cảnh quanh tháp, ngoài cảnh đẹp của biển khơi, của sông dài, của những
ngọn núi ngọn đồi lúp xúp. Còn những cụm đá ở nơi cửa sông Cù trông cũng rất
vui mắt.
Có
hai cụm nằm gần nhau. Chu vi chừng 100 thước vuông, và cao từ mặt nước trở lên
chừng vài ba thước. Trên một tảng đá to lớn nhất có một ngôi miếu nhỏ đứng cạnh
một cây gòn khẳng khiu. Trông như một hòn non bộ ở giữa một bể cạn trong vườn
cảnh.
Đó
là Hòn Đá Chữ gọi tắt là Hòn Chữ.
Gọi
như thế là vì trên đá có chữ, một lối chữ hình như những con nòng nọc nối đuôi
nhau, cổ nhân gọi là Khoa Đẩu tự. Lối chữ này giống như lối trùng văn khắc ở
các nơi bia, nơi cửa tháp Thiên Y. Có lẽ là một lối chữ cổ Chiêm Thành, người
Chàm đọc không được, người Ấn Độ đọc không được, đến những người thông thạo cổ
tự thế giới, như các nhà khảo cổ Âu Mỹ đã từng đến Nha Trang, đọc cũng không
được.
Những
chữ ấy chắc là của vua quan Chiêm Thành ngày xưa đã khắc với một mục đích gì
đó, chớ không phải của du khách cao hứng chơi ngông. Nhưng vì không đọc được
nên không biết ý nghĩa như sao.
Dấu
chữ bị sóng gió mài mòn. Hiện chỉ còn trông lờ mờ trên một vài tảng.
Nguyên
lai của mấy cụm đá có nhiều thuyết:
Kẻ
thì bảo là “trời sanh”.
Các
nhà khảo cổ ngờ rằng từ trên tháp Thiên Y A Na lăn xuống.
Nhưng
người địa phương tin rằng đó là những tảng đá đã đánh đắm những chiếc thuyền
của bộ hạ Thái Tử Bắc Hải. Người xưa đã chạm chữ vào để làm bia cho những kẻ ỷ
thế cậy mạnh biết mà sửa mình.
Cảnh
trí trông cũng khả ái lắm.
Đứng
trên đá nhìn ra bốn mặt, thì phía Đông nước xanh lẫn mây trắng, hữu hạn nhưng
vô cùng; phía Tây con sông Nha Trang như tấm lụa giợn thủy ba, chạy dài ở giữa
hai bờ non xanh bãi lục, với cầu Xóm Bóng “vắt vẻo qua sông”; phía Bắc núi non
bàn khúc, màu xanh điểm màu đỏ màu trắng của những dãy nhà Dòng, của những ngọn
tháp Bà, của nhà cửa làng Cù Lao, và cầu Bến Cá với những ghe thuyền đông đúc;
phía Nam thành phố Nha Trang ẩn hiện trong bóng cây xanh.
Quang
cảnh ấy, tuy đã trông thấy khi đứng trên Tháp Bà nhìn xuống. Nhưng vị trí thay
đổi, cảnh sắc cũng thay đổi rất nhiều. Một giai nhân trông ở sau lưng đâu có
giống khi trông ở trước mặt hay khi trông ở bên hữu bên tả.
Và
nếu đứng trên Tháp Bà nhìn xuống, người giàu tưởng tượng có thể tưởng mình
đương đứng tại Ba Lăng mà nhìn cảnh Động Đình: Hòn Chữ biến thành cảnh “thần
tiên bất khả tiếp” có trăm ngàn cung điện bằng vàng, muôn vàn Ngọc nữ ẩn náu,
và khách vãng cảnh khoan khoái để mặc cho “tâm tùy hồ thủy cọng du du” [10].
Thời
thái bình, khách văn chương thường tổ chức những cuộc ngâm vịnh nơi Hòn Chữ, và
họ cũng thường mượn Hòn Chữ để gởi gắm tâm tình:
Ai về Xóm Bóng, Hà Ra,
Đi ngang Hòn Chữ cho ta nhắn lời:
Nhắn ai nuôi chí vá trời,
Lòng trung tạc đá muôn đời còn
bia.
II
Anh đứng Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng,
Sáng trăng lờ mờ lượn sóng lăn
tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách biển ngăn ngại
ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng,
Sông sâu khôn dễ mượn lòng đưa
thư!
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư,
Biển Nha Trang cạn nước,
Anh mới từ duyên em.
*
* *
III
A
Từ Tháp Bà theo mé sông, chân núi đi lên chừng một
cây số, hoặc từ cầu xe lửa Ngọc Hội đi xuống chừng bốn năm trăm thước, du khách
trông thấy bên bắc ngạn sông Nha Trang, sát chân núi, dưới bóng cây, một cụm đá
xanh hòn hòn to lớn chồng chất lên nhau, đồ sộ vững vàng, chắn ngang con đường
lên xuống.
Trong
cụm đá có một hang đá tục gọi là:
HANG ÔNG BƯỞI
Tại
sao có tên như thế?
Tại
vì buổi đầu nhà Nguyễn Trung Hưng, có một nhà sư đến tu nơi hang, quê quán nơi
đâu, danh tánh là gì, không một ai biết rõ. Nhân thấy quanh năm chỉ ăn bưởi
thay cơm, nên gọi là Ông Bưởi.
Truyền
rằng:
Ông
Bưởi đến hang ở với một con hổ mun và một con vượn trắng. Cách tu hành khác hẳn
các sư sãi nơi chùa chiền. Không kệ không kinh, không mõ chuông, không tràng
hạt, mai chiều ngồi im lìm trên đá tham thiền. Con vượn đứng hầu bên cạnh, con
hổ nằm canh trước miệng hang.
Mỗi
ngày nhà sư chỉ thọ trai vào đúng ngọ. Thức ăn là một tép bưởi do con vượn cúng
dường.
Thường
thường ít ra khỏi hang. Thỉnh thoảng có vân du thì cỡi hổ mà đi, nhẹ nhàng như
mây gió.
Ban
đêm trong hang tỏa sáng, xa trông trong mát như ánh trăng. Người thì cho rằng
Ông Bưởi tu hành đắc đạo, nên thân phát hào quang. Nhiều người lại quả quyết
cho rằng hào quang kia là do bộ nút bằng dạ minh châu nơi áo cà sa của Ông Bưởi
phát hiện. Ai cũng cho mình đúng song sợ cọp, không ai dám đến tìm sự thật ở
nơi hang.
Nghe
đồn ông Bưởi có dạ minh châu, một bọn côn đồ quyết tâm chiếm đoạt. Một hôm
chúng rình thấy hổ và vượn vào rừng hái trái, bèn kéo nhau vào hang. Hang đá
trống không và thân ông Bưởi chỉ choàng một tấm vải nâu không đường may cũng
không thấy nút. Thấy ông Bưởi ngồi như một pho tượng, gọi không đáp hỏi không
thưa, một tên lấy tay thọc lét. Nhưng tay vừa để vào nách thì vội thụt ra ngay,
vì lạnh rợn mình như rờ vào thây người chết. Tên thứ hai lấy chân đạp mạnh:
thân nhà sư vẫn ngồi trơ. Cả bọn xúm nhau xô, nhưng rán đã hết sức, vẫn không
xê dịch được mảy may. Một tên nổi khùng, rút dao găm đâm mạnh vào bắp vế. Lưỡi
dao lút quá nửa, nhưng ông Bưởi dường không biết không hay. Chúng vừa muốn giở
thêm trò, nhưng con dao găm vụt bắn ra, cắm sâu vào vách đá. Đồng thời một vòi
máu nóng từ nơi vết thương phun mạnh vào mặt bọn bất lương. Chúng thất đảm xô
lấn nhau chạy mất. Từ ấy không ai dám đến gần hang.
Ông
Bưởi ở tu nơi hang ngót chín mười năm trời. Những khi dân trong hạt bị cơ cẩn
hoặc bị bệnh thiên thời, ông Bưởi thường đem gạo, thuốc đặt nơi ngã ba đường để
cứu trợ.
Vì
vậy nhân dân địa phương xem ông Bưởi như vị Phật sống. Nhưng vì không dám đến
gần, nên nhiều người buổi mai buổi chiều, đốt hương vọng về hang mà đảnh lễ.
Quan
cai trị nghi rằng ông Bưởi có tà thuật. Lại thấy đồng bào mỗi ngày mỗi thêm
sùng bái, sợ lâu sanh biến, nên ra lệnh trục xuất khỏi địa phương. Nhưng lệnh
không được thi hành, quan liền kéo quân đến vây bắt.
Quân
lính vừa đến gần miệng hang, thì hổ gầm như sấm dậy, vượn hú lên nghe rợn mình,
không ai có gan bước tới. Một tên lại già thiết kế:
-
Dùng hỏa công.
Thế
là củi chất quanh hang. Rồi lửa bừng cháy rật rật. Ai cũng tưởng ông Bưởi cùng vượn,
hổ phải chết thui. Kẻ gian ác lấy làm thỏa lòng. Người lương thiện sụt sùi
khóc. Không ngờ ngọn lửa đang lên cao ngất, bỗng rẽ làm hai: ông Bưởi cỡi hổ,
dắt vượn, từ trong hang ung dung đi ra, rồi vụt chạy thẳng lên núi. Mây bay gió
cuốn, chỉ trong khoảnh khắc đi mất tăm.
Không
ai biết ông Bưởi đi đâu.
Và
từ ấy hang bỏ vắng.
Hang
ông Bưởi - cũng thường gọi là động ông Bưởi, hay chùa ông Bưởi - không vĩ đại,
cũng không kỳ mỹ, như động Hương Tích, động Huyền Không.
Hang
chỉ cao rộng vừa một người đi thẳng lưng, và chạy dài chừng mười lăm hai mươi
bước. Nền có phần bằng thẳng, nhưng vách hô hê hốc hỉu, chỗ lõm chỗ lồi, chớ
không trơn liền cũng không ngay ngắn. Và mái là một tảng đá rộng lớn phẳng
phiu, nằm ngang trên vách đá.
Miệng
hang trở về hướng Đông.
Lòng
hang mát mẻ và sáng sủa, vì cửa hang rộng và đầu hang phía Tây có kẽ hở để lách
mình ra vô.
Cảnh
tuy không lấy gì làm đẹp mắt, song nếu
đến hang nhằm trưa mùa hạ và chơi cho đến chiều tối, thì hưởng được nhiều thú
vị thanh tao.
Ở
ngoài trời thì nắng chang chang, mà trong hang không hề có chút nóng, lúc nào
cũng có hơi gió biển thổi lồng, nhưng chỉ hiu hiu vừa đủ mát.
Tứ
bề im lặng, không một tiếng khuyển, không một bóng người. Tiếng chim trên non,
từ xa đưa lại, trong nơi thanh vắng, giọng nghe cao vút và trong veo. Thỉnh
thoảng mùi hoa rừng bay theo gió, có đó rồi liền không.
Rồi
khi mặt trời đã về non, leo lên nóc hang mà thưởng cảnh.
Nóc
hang, đúng hơn nên gọi là mái hang, là một sân đá vừa bằng vừa rộng, giống như
sân thượng một nhà lầu. Trước mặt, sông Nha Trang như con bạch long uốn khúc;
và cồn dừa bãi cỏ nối liền những đám cây với nhà cửa ẩn hiện, thành một bức
tranh màu xanh mở rộng điểm thêm những nét xám nét đỏ rung rinh vì những làn
khói nhẹ bay qua. Và cửa biển Nha Trang ở phía Đông phản chiếu ánh trời hôm,
sáng trưng như một hồ thủy ngân vĩ đại.
Khi
trời đã nhá nhem tối, sóc và kỳ nhông kéo ra từng bầy. Nhiều con lớn bằng cổ
vế. Trông thấy bóng người, ban đầu sợ chạy trốn, nhưng rồi thấy người không có
ác ý, chúng kéo nhau trở lại, ra sân đá nhảy giỡn tự nhiên.
Nếu
trời có trăng thì có thể ở chơi cho đến khuya để thưởng thức cảnh “yên lung hàn
thủy nguyệt lung sa” trong thơ Đường thể hiện.
Năm
Kỷ Mão (1939), vào khoảng thượng tuần tháng 5, một nhà thơ đến viếng hang ông
Bưởi có để lại một luật rằng:
Vách đá cheo
leo chắn bợn trần,
Tình riêng với cảnh với giai
nhân,
Gió lồng cửa động không trời hạ,
Trăng vẽ mày ai sắc nước xuân.
Đạo hạnh xưa thầy riêng một cõi,
Phong lưu nay tớ vẹn mười phân.
Nhắn cùng anh chị yêu non nước,
Đây của mình đây chớ ngại ngần.
Gần đây, không biết vì mến danh ông Bưởi hay muốn
mượn danh ông Bưởi để quyến rũ thập phương, một am thờ Phật dựng trước cửa
hang, khiến cảnh thiên nhiên bị giảm sắc đi nhiều lắm!
Do
đó Trường Xuyên có mấy vần cảm tác :
Mây qua ráng
lại chẳng ngăn ngừa,
Mượn cửa am rào nẻo đón đưa!
Sắc gấm dẫu lồng thơ vách đá,
Bụi đời e nhiễm gió ban trưa.
Thăm thầy viếng cảnh chi thêm
bận,
Trách nắng than sương nghĩ cũng
thừa!
Đành gởi nhớ thương chương ký ức,
Nghìn sau khỏi nhạt mối tình xưa.
B
Cách Hang Ông Bưởi chừng bảy, tám cây số về phía
Bắc, tại ấp Lương Sơn, quận Vĩnh Xương, còn một hang đá nữa, phong cảnh cũng
đáng yêu. Đó là:
HANG ÔNG GIÀ
Hang
nằm phía Nam Bãi Miếu trên gành đá Bàn Than.
Hang
ăn sâu vào gành. Miệng rộng chừng 5, 6 thước. Từ ngoài vào trong dài trên 10
thước. Một nửa ngập dưới nước. Xuồng có thể vào ra dễ dàng.
Nơi
vách cuối hang có một hóc nhỏ, sâu chừng hai thước. Rong rêu mọc tua tủa. Đứng
ngoài miệng hang trông vào, giống hình một ông già râu dài đứng bên cạnh một
đứa cháu gái bỏ tóc xõa.
Hang
do đó mà mệnh danh.
Cảnh
trong hang trông đã kỳ. Cảnh ngoài hang nhìn cũng rất thú.
Hang
ngó xuống vịnh Nha Phu. Phía Bắc có núi Phước Hà, phía Nam có núi Rù Rỳ, làm
hai cánh cửa che gió. Mặt nước bị thu hẹp không làm cho mắt chơi vơi giữa cảnh
mênh mông bát ngát của thương hải.
Gành
Bàn Than, đá mọc lởm chởm, chỗ thấp chỗ cao, nơi lồi nơi thũng, chạy từ Lương
Sơn đến Rù Rỳ. Chân, sóng vãi trắng. Đầu, cây rải xanh.
Bãi
Miếu, cát trắng phau và nhỏ mịn, trải dài ở phía Bắc gành Bàn Than. Sóng biển
không to, lúc nào cũng thưng thưng chầm chậm.
Gành
và bãi nhờ hang mà được khách du quan ghé mắt. Nhưng nếu không gành không bãi
thì hang không đủ sức cầm chân khách được lâu.
Cho
nên phải có ba mới đủ bộ vậy.
C
Từ hang Ông Già trở vô Cù Lao trở lại để viếng cảnh:
HÒN CHỒNG
Ở
Nha Trang, muốn đến Hòn Chồng thì có hai đường. Hoặc đến Xóm Bóng mướn con
thuyền nho nhỏ bơi ra hướng Bắc, để khai vị thú trời biển bao la. Hoặc theo
đường Quốc Lộ số 1 đi ra khỏi Tháp Bà chừng một cây số rưỡi, rồi quẹo xuống ngõ
trẽ qua xóm dừa nước ngọt bóng xanh. Chỉ trong giây lát là đến Hòn Chồng.
Hòn
Chồng có hai khóm:
Một
nằm ngoài biển.
Một
nằm trong cát, sát chân đồi thôn Cù Lao. Khóm nằm dưới biển trông có bề thế. Đá
một màu xam xám, lớp chìm dưới nước, lớp nổi lên mặt sóng, lớp nằm giăng hàng,
lớp chồng lên nhau và nhiều hòn to dềnh dàng nằm đè lên trên hòn bé bỏng, nhưng
không hề sụn không hề lay. Từ trong bờ đá chạy lúp xúp ra ngoài khơi, rồi đột
khởi lên một tảng đá vừa cao vừa rộng, trông như một cái gò, dáng bằng bằng.
Trên tảng đá nầy lại có một hòn đá to lớn như một cái nhà, nằm chênh vênh nơi
mỏm cao nhất. Hình đá hơi tròn tròn, nhưng chỗ lồi chỗ lõm, và nơi mặt ngó vào
bờ, có dấu một bàn tay to tướng in sâu vào đá với năm đầu ngón tay vấu lại.
Người ta bảo đó là dấu bàn tay ông Khổng Lồ [11].
Khóm
nầy là Hòn Chồng Đực, gọi tắt là Hòn Chồng.
Còn
khóm kia là Hòn Chồng Cái, gọi tắt là Hòn Vợ.
Đá
nơi Hòn Chồng Cái cũng lớn chồng lên nhau, lớp nằm giăng hàng như cảnh Hòn
Chồng Đực. Nhưng nơi Hòn Chồng Đực, đá thường bị sóng cọ mài nên phần nhiều
trơn liền tròn trịa. Còn đá nơi Hòn Chồng Cái rất nhiều góc cạnh, và phần nhiều
hình khối, hình lăng trụ. Đá nơi Hòn Chồng Đực thường thường chồng lên nhau. Đá
nơi Hòn Chồng Cái lại nằm khăng khít nhau một cách âu yếm.
Trên
khóm Hòn Chồng Cái, có hai tảng đá hình khối chữ nhật đứng song song, và trên
đầu đội hai hòn đá nhỏ hình khối vuông. Đứng xa trông giống hai người đàn bà
mặc áo dài, ngồi nhìn ra biển.
Cảnh
tượng trông vừa cổ vừa kỳ.
Khách
phong tao thường lấy đây làm nơi ngâm vịnh.
Dưới
triều Duy Tân (1907-1916), chí sỹ Trần Cao Vân vào Khánh Hòa tìm đồng chí, ghé
chơi Hòn Chồng có đề một luật rằng:
Đất nắn trời nung khéo định đôi,
Hòn Chồng Đực Cái phối hai ngôi.
Ông xây nên đống cây trồi mụt,
Bà đúc ra khuôn đá mọc chồi.
Mây núi rủ giăng màn tịnh túc,
Nước khe hầu rót chén giao bôi.
Non thề giai lão trơ trơ đó,
Gió chẳng lung lay sóng chẳng dồi.
Trong
quyển Một Tấm Lòng ra đời năm 1939, cũng có một bài rằng:
Trời mây biển nước cảnh mênh
mông,
Chân núi dô ra đá mấy chồng.
Khắn khít thớt em nương thớt chị,
Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông.
Sóng xô đẩy mãi bền gan sắt,
Rêu buộc ràng thêm chặt giải đồng.
Gặp gỡ đá đây ta hỏi đá:
Vá trời bao thuở mới nên công.
Thuần Phu Trần Khắc Thành họa vận:
Kìa đèo Đại
Lãnh đảnh Cù Mông
Cảnh thú khôn so cảnh đá chồng.
Biển bọc chân non hình bán đảo,
Chữ đề mặt đá nét thi ông.
Nước mây bốn phía xem như vẽ,
Sóng gió nghìn thu vững tựa đồng.
Những khách thừa lương thanh thỏa
dạ,
Hóa công xưa khéo tạc nên công.
Và
gần đây một nữ giáo viên hưu trí, bà Tùng Trang, mượn cảnh Hòn Chồng để tả tình
cảnh éo le của mình, [12] rất
ý nhị, rằng:
Cắt cớ cho rồi đấng hóa công!
Sinh non Bà lại có non Ông.
Xem qua những tưởng hai hòn núi,
Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng.
Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt,
Sóng trêu gan đá dửng dưng lòng.
Tháng ngày đối diện cùng nhau đó,
Gang tấc mà ra cách mấy trùng!
Cảnh Hòn Chồng, dưới mắt mỗi nhà thơ, nhuộm một sắc
thái riêng biệt. Nhưng các nhà thơ đều nói chung cả Hòn Chồng Đực, Hòn Chồng
Cái. Tác giả Một Tấm Lòng thì mượn tình ông cháu, nghĩa chị em, để nói. Trần
Cao Vân và Tùng Trang mượn cảnh vợ chồng để nói.
Nếu
đứng trên phương diện vợ chồng, thì thử hỏi:
-
Trên khóm Hòn Chồng Cái có hai Bà. Vậy cả hai là Vợ của Hòn Chồng Đực, hay chỉ
một trong hai bà là vợ mà thôi?
Nếu
chỉ có một bà là vợ, thì cảnh Hòn Chồng là cảnh Thi Sách và hai Bà Trưng.
Nếu
cả hai là vợ, thì đó là cảnh của Nga Hoàng Nữ Anh và vua Thuấn.
Hỏi
người Tàu thì nhất định bảo là người đời Ngũ Đế.
Hỏi
người Việt thì tất nhiên đáp là người đất Mê Linh.
Hỏi
đá đá làm thinh.
Cho
nên Cổ Bàn Nhân ở Bình Định, vào viếng Hòn Chồng sau ngày chiến tranh Việt Pháp
đình chỉ, có bài thơ ngũ ngôn:
Non nước đúc
Hòn Chồng,
Hai Bà đối một Ông.
Khói mây đầu nhuốm bạc,
Mưa nắng má phai hồng.
Hồn nghĩa Mê Linh tạc?
Giọt tình Tương Thủy đông?
Vá trời tài hẳn có,
Lấp bể chí nuôi không?
Khắn khít tình em chị,
Lơ là nghĩa vợ chồng!
Chuyện đời thôi để đó,
Chung gánh gánh non sông.
Những bài thơ trên tuy mượn cảnh để ký thác tâm chí
song vẫn nêu rõ những đặc điểm của Hòn Chồng trên thực tại khách quan.
Nhưng
có nhiều du khách đã thất vọng khi đến Hòn Chồng. Như cụ Xuân Sanh tục gọi là
“Thầy Đồ Nghệ”, thời Pháp thuộc, là một Cụ Đồ đã than:
Ngó lại ngó qua hai đống đá,
Leo lên leo xuống hư đôi giày!
Cụ
Đồ nói đúng sự thật một trăm phần trăm. Bởi Hòn Chồng chỉ toàn đá là đá. Và leo
đá mà mang giày thì tài gì không hư. Nhưng đó là tại người chớ không phải tại
cảnh. Không cảnh nào không đẹp. Nếu trong tâm hồn người đối cảnh có sẵn chất
đẹp, thì vẻ đẹp của cảnh sáp nhập vào tâm hồn rồi hiển hiện ra trước mắt. Bằng
tâm hồn chứa đựng toàn hình ảnh lợi danh, thì hình ảnh không mấy đẹp kia che
khuất hết vẻ đẹp của cảnh. Nhà Phật bảo “vạn pháp do tâm tạo” là vậy đó.
Cho
nên muốn thưởng thức cảnh thú Hòn Chồng, tưởng nên mang theo một ít “tâm hồn
nghệ sĩ”.
IV
A
Có
tình bà con với Hòn Chồng nếu không phải về “huyết thống” thì về “huyền thoại”,
đó là:
SUỐI TIÊN
Phát
nguyên tại vùng Hòn Bà quận Cam Lâm, Suối Tiên chạy quanh co trong các thung
lũng, tràn lên đá, luồn trong đá, khi ẩn khi hiện, khi ào ào như mưa đổ, khi
róc rách, khi lặng lờ... Và sau khi vượt qua những nơi cây đá gập ghềnh, suối
xuống đồng bằng, đem nước tưới đồng phì nhiêu thôn Xuân Phú.
Tên
tục là Suối Bà Nên.
Từ
Nha Trang theo đường Quốc Lộ số 1 đi vào độ 19 cây số thì có con đường liên
hương chạy lên hướng Tây. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến
Suối Tiên.
Nơi
du khách dừng chân ở mút đoạn đường, có một dãy đá chắn ngang dòng suối, tạo
thành một đập đá thiên nhiên. Nước suối một nửa chảy vẹt sang phía Bắc vào
ruộng, một nửa tràn lên những tảng đá thấp chảy về hướng Đông, rót vào Suối Dầu
để cùng ra Sông Cái.
Dưới
chân đập đá thiên nhiên, một vùng nước xói thành lòng chảo, sâu và rộng, tục
gọi là:
HỒ TIÊN
Gọi
là Hồ Tiên, vì truyền rằng xưa kia tiên thường đến tắm mát.
Nước
hồ trong thấy đáy, và đáy hồ cát trắng phau phau. Đến mùa nóng nực mà đến nơi
đây thì thật vô cùng thích thú. Chỉ nhìn chất trong của nước hồ, chất trắng của
cát hồ và thở hít khí mát của nước hồ bốc lên, cũng đã thấy khinh khoái trong
người, chớ chưa đợi đẵm mình vào nước.
Dù
xưa kia không có tiên đến tắm, mà có đặc điểm chưa tắm đã mát như thế, thì cũng
đã đáng gọi là Hồ Tiên.
Nhưng
Hồ Tiên mới là cốc rượu khai vị hiến cho khách đến du ngoạn cảnh Suối Tiên.
Không
nên triền miên nơi hồ. Hãy theo bờ suối đi ngược lên.
Bờ
Suối toàn đá. Đá muôn hình vạn trạng nhưng toàn một màu sắc xám đen. Cây cối
lại mọc chen trong đá. Nhiều cây cổ thụ, thân hình khúc khuỷu, đứng nghiêng
mình soi vào lòng suối, bóng xanh chờn vờn theo sóng xanh. Trong lòng suối,
nhiều nơi đá nằm ngổn ngang, lớp chìm xuống nước, lớp nổi lên không. Nước chảy
lâu ngày mặt đá trông nhẵn thín.
Trên
một tảng đá rộng lớn và bằng bặng, nửa nằm dưới nước nửa nằm trên bờ, có dấu
chữ điền chữ khẩu, nét đá mờ rêu, và nằm lăn lóc một ít đá vụn hình tròn tròn
vì gió mưa mài cọ.
Người
địa phương bảo đó là Bàn Cờ Tiên.
Lên
trên nữa, đá chất chồng thành hang hố, nhiều chỗ nằm ngồi thong thả. Chung
quanh có bóng cây che mát, có hoa rừng thoảng hương.
Người
địa phương bảo đó là Động Tiên.
Vì
suối có Động Tiên, có Bàn Cờ Tiên, có Hồ Tiên, nên mệnh danh là Suối Tiên.
Còn
vì sao lại gọi là Suối Bà Nên thì chưa được rõ. Hỏi người sở tại thì kẻ nói thế
nầy người nói thế khác, nghe không ý vị, nên để mặc Bà Nên, mà đi tìm tiên cho
thích thú.
Truyền
rằng tiên thường đến Suối Tiên trong mùa nóng nực.
Mỗi
lần tiên đến thì có voi cọp đến hầu, có hươu dâng quả dâng hoa, vượn dâng rượu
dâng nước. Các Tiên Ông thì đánh cờ, các Tiên Bà Tiên Cô, các kim đồng Ngọc Nữ,
lớp thì ngồi trên mỏm đá cao đàm đạo, lớp thì thung thăng đi trên sóng, kẻ đàn
người sáo, kẻ gõ phách, người múa ca. Gió mát nước trong, Suối Tiên lúc bấy giờ
thật là Bồng Lai Nhược Thủy.
Chư
Tiên, người nào vui chơi đã mỏi thì vào động nghỉ ngơi.
Đến
khi mãn cuộc vui thì cùng nhau cỡi mây về Tiên giới.
Một
hôm chư tiên đều lui bước hết, chỉ một Tiên ông vì quá chén nằm ngủ quên trong
động đến mấy hôm. Khi tỉnh dậy một mình, bèn theo bờ suối đi xuống...
Lúc
bấy giờ một đoàn Tiên nga đương tắm.
Kẻ
giăng mình trên cạn, người lặn hụp dưới hồ sâu. Vóc ngọc da ngà ẩn hiện trong
màu nước trong, cát trắng.
Dù
rằng là Tiên nhưng lòng thích đẹp vốn trời sở phú, thì tu đến muôn ngàn kiếp
cũng không dứt được tánh trời. Nên khoái mắt khoái lòng, Tiên ông vùng cất
tiếng cười thích thú. Các Tiên nga ngoảnh đầu trông thấy, hổ thẹn, vụt bay bổng
lên không trung. Những áo xiêm bỏ lại nơi bờ hồ, lần lượt biến thành năm sắc
mây bay chờn vờn trên ngàn cây cổ thụ.
Các
Tiên nga về cung Đâu Suất kiện cùng Thái Thượng Lão Quân. Lão Quân phán:
-
Phạm nhân háo tửu háo sắc, bị trích xuống trần thế làm kẻ bạch diện thư sinh.
Và
để tránh những chuyện tương tợ có thể xảy ra một lần nữa làm thương tổn danh dự
làng Tiên, Lão Quân lại cấm chư tiên không ai được đến Suối Tiên nữa.
Từ
ấy Suối Tiên không còn thấy bóng tiên.
Đồng
thời trong vùng sanh ra một đứa con trai, hình dung tuấn tú. Lớn lên học giỏi
thơ hay, nhưng có bệnh nghiện rượu và ưa sắc đẹp. Vì có bệnh nên thi mãi vẫn
rớt, và thục nữ đều chê “dài lưng”. Sau phải bỏ bút nghiên làm anh thương nhân
đa trá. Không mấy chốc mà giàu. Có của liền có vợ. Nhưng khi vào phòng hoa
chúc, rượu cúng Tơ Hồng làm cho anh chàng say túy lúy. Rồi đêm nào ma men cũng
rủ chàng đi tìm mộng, khiến cho người có chồng phải ôm mãi tuyết sạch giá
trong. Không chịu nổi cảnh gần lửa mà lạnh lùng, người vợ bỏ đi biệt xứ. Anh
chàng buồn bã bỏ ăn bỏ uống, ra đứng trên tảng đá cạnh Hồ Tiên, mơ màng nhìn
nước nhìn cát, mỉm cười cùng bóng những nàng tiên nữ trong mơ. Lâu ngày thân
khô hóa thành cây cổ thụ đứng đìu hiu trong bóng nước mây.
Định
Phong đến chơi Suối Tiên có mấy câu ngẫu tác:
Suối tiên nước chảy lững lờ,
Tiên đi đâu để bàn cờ rêu phong!
Mây trôi ngày tháng theo dòng,
Bền gan đá vẫn ngày mong đêm chờ.
Chờ mong sắp lại cuộc cờ,
Thú vui chung cả đôi bờ bắc nam.
Động tiên chưa bén gót phàm
Hồ Tiên sóng vẫn giợn chàm long
lanh.
Cây cao hoa lá sum cành,
Ráng mây nỡ để nặng tình nhớ
thương.
Phía
trên Hồ Tiên lại có dấu một bàn chân to lớn mà năm đầu ngón chân in vào đá thật
sâu. Người địa phương bảo đó là bàn chân ông Khổng Lồ và truyền rằng:
Trong
thời kỳ chư Tiên còn đến chơi Suối Tiên, một hôm ông Khổng Lồ ở Bình Định đi
vào Nam, nghe danh Suối Tiên liền tìm đến. Quang cảnh vừa mắt làm cho trí lửng
bước chân. Ông bước lên hòn đá rong rêu, lơ đễnh bị trợt chân. Ông giật mình,
một chân bấm vào đá, một tay chống vào vách, để cho khỏi ngã. Ông chống mạnh
quá đến nỗi bàn tay ông lún vào đá và một khoảnh vách vỡ văng tận mé biển Cù
Lao hóa thành Hòn Chồng Đực và Hòn Chồng Cái. Chân ông bấm cũng mạnh quá, nên
dấu còn để nơi Suối Tiên .
Nghe
chuyện ông Khổng Lồ, một du khách là Thi Nại Thị cười bảo:
-
Ông Khổng Lồ bị trượt không phải vì vô ý bước nhằm đá rêu, mà chính vì Hồ Tiên
báo hại.
Cho
nên có bài ca rằng:
Khổng Lồ vừa mập vừa cao,
Chân bước đi trên đá,
Mặt ngó vào Hồ Tiên:
Trong
ngần nước tẩm dòng quyên
Năm
ba pho tượng thiên nhiên nõn nà.
Thân ông run,
Hồn ông động,
Tim ông rụng,
Mắt ông lòa.
Bảy nghiêng tám ngã...
Đá mấy tòa rung rinh.
Bước gập ghình,
Thất kinh
Ông vội vã
Bám chân vào đá.
Nhưng ông vẫn ngã cái ình!
Tiên giật mình bay đi mất.
Riêng ông để dấu si tình lại
nghìn thu.
Dấu
si tình của Khổng Lồ một nửa là bàn chân để nơi Suối Tiên Một nửa bàn tay gởi
nơi Hòn Chồng, chứng tỏ một cách nên thơ rằng Suối Tiên và Hòn Chồng quả thật
là dòng họ đá với nhau vậy.
*
* *
Vì
dòng họ nhà đá mà phải từ Hòn Chồng đi thẳng vào Suối Tiên một mạch. Viếng Suối
Tiên xong theo con đường Quốc Lộ số 1 trở về Nha Trang, nhân đi ngang qua Diên
Khánh, cũng nên ghé lại viếng:
-
Suối Đổ
-
Suối Ngổ
-
Suối Ồ Ồ.
B
SUỐI ĐỔ
Cũng gọi là Suối Nước Đổ, nằm trong địa phận làng
Phước Trạch gần làng Cư Thạnh, vùng phía Tây dãy núi Hoàng Ngưu.
Suối
từ trên núi cao tục gọi Hòn Chùa chảy xuống và tạo thành ba cảnh hồ khá rộng.
Hồ thứ nhất nằm trên lưng chừng núi, dưới một
thác nước đổ mạnh. Nước hồ chia làm hai nhánh chảy quanh co xuống triền núi
chừng năm ba chục thước thì rót vào hai hồ nằm gần nhau, rồi nhập lại thành một
dòng chảy xuống núi.
Lòng
hồ cát trắng phau phau. Lòng suối và quanh suối đá xanh lớp giăng lớp chồng.
Cây cối mọc chen đá, xanh tươi, rậm rạp.
Trên
bờ hồ thứ nhất, ngoài những tảng đá dựng thành vách, nằm thành đống, có một
tảng đá hoa cương to lớn dị thường và bằng phẳng như tấm ván ngựa, trông như có
tay người đẽo dũa công phu.
Truyền rằng đó là nơi bà Thiên Y A Na
đến ngồi hóng mát, hoặc nghỉ chân lúc vân du. Những lúc Bà đến thì có ba tiếng
sấm nổ vang trời, rồi có một luồng ánh sáng màu xanh, rộng và dài như một cây
lụa xổ, từ phía hòn Núi Chúa ở Đại Điền, hoặc từ Hòn Bà ở Cam Lâm, bay đáp
xuống suối.
Đi
vào sâu trong núi có một vườn cam và một vườn quýt, trái rất nhiều. Ai đến hái
ăn cũng được, nhưng không được khen chê, mà cũng không được hái đem về nhà. Nếu
không tuân thì có tại họa xảy đến.
Cách
hồ nhất chừng trăm thước, có một cây kỳ nam lớn đến bốn ôm và dài cũng đến chín
mười thước, nằm ngang qua suối. Đi ngoài xa nghe phảng phất mùi thơm, nhưng lại
gần thì không thấy chi cả. Nếu người nào có ý muốn chiếm hữu thì một cặp rắn
mun to lớn hiện ra khủng bố.
Thời
Pháp thuộc, một viên chánh tổng tìm thấy cây kỳ, đem lễ vật đến cúng kính rồi
lấy dây cột nơi gốc cây kéo dài ra cho đến chân núi để làm dấu. Đoạn về nhà
thuê người đem dây thừng đến khiêng. Khi trở lại, theo sợi dây mà lên núi.
Nhưng đến nơi thì thấy mối dây cột ở nơi khác, còn cây kỳ biến đâu mất, tìm mãi
vẫn không thấy tăm hơi.
Tuy
vậy mãi đến nay, người đi củi thỉnh thoảng vẫn còn còn nghe hơi trầm thoảng.
Bên
suối nơi hồ thấp, có đền thờ Bà, khói hương không ngớt.
Một
Nho sĩ làng Cư Thạnh là Thái Vịnh có bài thơ vịnh Suối Đổ rằng:
Hóa công xây
đắp tự đời nao,
Thăm thẳm rừng xanh trổ lối vào.
Xối xả nước tuôn lì mặt đá,
Mịn màng cát trải mát lòng ao.
Mây tòng khói liễu chồng rồi
chất,
Đờn suối ca chim thấp lại cao.
Bên núi hương trầm đưa phảng
phất,
Khe trong mường tượng bóng hoa
đào.
Năm 1963, trước khi Chánh phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ
mấy tháng, tự nhiên trên Suối Đổ nổi lên ba tiếng sấm, người địa phương hãi hồn
vì tưởng có giặc. Liền đó có người nằm chiêm bao thấy thần linh mách bảo rằng
bà Thiên Y về Suối ban phước cứu dân độ thế. Tiếng đồn lan ra, người ta đến múc
nước về chữa bệnh.
Bệnh
có hết chăng chẳng ai biết, nhưng từ miệng người nầy sang miệng người kia rằng
“người câm vừa uống vào mấy hớp liền nói được”, rằng “một người mù đến khấn vái
rồi múc nước rửa liền thấy đàng đi”, rằng “người bị bệnh ung thư, Bác Sĩ không
chữa nổi, xin nước Suối Đổ về uống có mấy lần liền bớt đau” vân vân. Một người
nói chín mười người nghe, rồi chín mười người nói cho trăm ngàn người nghe...
Một đồn mười, mười đồn trăm, đồn ngàn, đồn muôn. Ban đầu chỉ có người trong
quận Diên Khánh đến cầu xin nước thiêng, lần lần đến người ở quận khác trong
tỉnh. Chỉ trong một tuần nhật, người Dalat, người Saigon... cũng thùng chai đưa
đến. Chật đường chật sá. Chánh quyền tỉnh Khánh Hòa ra lệnh cấm không được,
phải cho lính đến canh. Nhưng canh đường nầy thì đồng bào tìm đường khác để vào
suối. Chộn rộn ồn ào, vui thật là vui.
Gặp
những người đi xin nước, hỏi. Ai nấy đều đáp “Hết sức linh nghiệm”. Nhưng những
người kém đức Tin vẫn nghĩ “Đó là một cách xem thơ Trạng Quỳnh”, nên nhân dịp
đông vui, đến ngắm cảnh chớ không xin nước.
Nhận
thấy những người đồn “nước rất thiêng” đều là kẻ giàu có. Một nhà thơ có mấy
câu hài hước đọc thầm cho bạn nghe, chớ không dám phổ biến vì sợ vạ miệng,
rằng:
Đời nay “tiền định” rõ ràng,
Nước thiêng cũng phải có vàng mới
thiêng.
Nhà nghèo chữa bệnh kinh niên,
Tìm đường đi xuống Huỳnh tuyền
khỏe hơn.
Suối
Đổ trước kia, ngoài người địa phương, ít ai để ý. Khách du lịch cũng không mấy
người tới lui, mặc dù suối ở gần đường Quốc Lộ số 1.
Nhưng
từ ngày xảy ra việc “xin nước thiêng”, thì miệng người theo đường Quốc Lộ đưa
danh Suối Đổ đi xa. Thành ra hiện nay đối với du khách, Suối Đổ cũng tế danh
cùng Suối Tiên và Suối Ngổ vậy.
C
SUỐI NGỔ
Suối nằm phía Đông Bắc thành Diên Khánh, thuộc địa
phận thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương, dưới chân hòn En.
Muốn
đến Suối Ngổ thì từ thành Diên Khánh đi ra, hoặc từ trụ sở Vĩnh Xương đi lên.
Đến vùng miễu Quá Quan, dưới chân hòn Đá Lố, thì theo con đường nhỏ đi lên xiên
xiên hướng Tây Bắc. Đường đi không dễ dàng thoải mái như đường đến Suối Đổ,
Suối Tiên, vì phải đi bộ bởi chật hẹp lại thêm nhiều gai gốc, nhiều vồng dốc.
Đi đường bằng chừng nửa cây số, du khách phải vượt qua ba cụm gò đá lẫn sỏi. Gò
tuy không cao không dốc, song khúc khuỷu chông chênh.
Đi
độ nửa đường thì gặp một vũng nước nho nhỏ nằm dưới chân núi. Nước từ trong
vách núi nhỉ ra đọng thành vũng. Chung quanh vũng toàn đá. Trong lòng vũng cũng
đá. Nước sâu chừng một gang tay. Trong như lọc. Uống vừa mát vừa ngọt. Hành
khách lại qua thường múc giải khát. Vũng tuy không lớn không sâu, nhưng múc mấy
cũng không cạn, nắng mấy cũng không khô. Người địa phương gọi là Giếng Cậu. Cậu
đây tức là con cháu bà Chúa Ngọc Thiên Y A Na. Gọi như vậy vì tin rằng tất cả
những gì tốt đẹp linh thiêng ở Khánh Hòa đều là của Bà và của Cô của Cậu cả.
Đi
một chặng nữa, nơi sườn núi thấy một vùng đá mọc lởm chởm, chỗ lồi rồi chỗ hũng
vô, chỗ thì đen chỗ thì trắng, đứng xa trông có vằn có vện như mặt ông bùa của
thầy phù thủy. Người địa phương gọi là Đá Mặt Quỷ.
Hai
cảnh nầy làm cho du khách vui mắt quên mỏi chân.
Qua
khỏi vùng Đá Mặt Quỷ thì đường đi luồn trong cây cối. Phải vén cành vẹt gai mà
đi. Đi chừng vài ba trăm thước nữa thì đến Suối.
Cảnh
Suối thật sầm uất thâm u.
Một
tảng đá hoa cương cao trên hai thước, chu vi cũng đến 15, 20 thước, trên mặt
lum lúp, nằm chắn ngang lối vào. Mọc bên cạnh, một cây gáo gốc lớn đến ba bốn
người ôm, thân cao tàn cả và rễ nổi lên từng vồng như những con trăn khổng lồ
uốn khúc.
Phải
đi quành qua hông đá hông cây mà vào. Bên trong là một hồ nước rộng chừng bảy
tám chục thước vuông. Phía Bắc là sườn núi; ba mặt, đá mọc ngổn ngang, lớn có
nhỏ có, đứng có nằm có. Chen chúc cùng đá, cây mọc dày như rừng già, che khuất
cả ánh mặt trời và gió. Đá cũng như cây đều phủ rêu mốc rêu xanh, và hình thù
muôn vẻ trông thật lạ mắt khoái tâm.
Hồ
nước do sòng suối trên núi cao chảy xuống tạo thành.
Dòng
suối phát nguyên trên đỉnh hòn Én, chảy quanh co theo sườn núi, khuất trong đá
trong cây. Khi đã ló dạng ra ngoài và cách chân núi chừng mươi thước, suối tuôn
thẳng xuống hồ, mai mải theo triền núi và qua vài ba bậc cấp lài lài, đứng bên
nầy hồ trông sang như một cây lụa bạch buông xổ. Lòng suối không rộng - chỉ độ
một thước một thước rưỡi thôi - sức nước cũng không mạnh - vì bị đá ngăn chận -
nên tiếng suối không lớn, chỉ nghe rào rào như gió thổi vào rừng bàng mùa thu
mùa đông.
Suối
tuôn xuống hồ. Nước hồ tràn vào kẽ đá kẽ rễ cây gốc cây. Thành ra cây đá chung
quanh hồ đều dầm nước ăm ắp. Qua kẽ cây kẽ đá, nước chảy ra ngoài hợp thành
suối chảy vào đồng ruộng.
Chung
quanh hồ và hai bên bờ suối, rau ngổ mọc đầy, mùi hương bay thơm ngát. Người
địa phương thường đến hái bán. Do đó suối mệnh danh là Suối Ngổ.
Phía
chân núi, cạnh hồ có một trảng rộng mọc toàn ổi. Đến mùa ổi chín, mùi thơm bay
nồng nực cả vùng và làm át hẳn mùi thơm của ngổ.
Phong
cảnh Suối Ngổ có vẻ man rợ và vô cùng vắng vẻ. Trông cách biệt hẳn với thế
gian! Ngoài tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, không nghe một tiếng gà tiếng chó.
Đứng trước những cây cao, đá to, trong người đôi khi thấy rờn rợn. Hình thù của
đá của cây khiến cho những óc giàu tưởng tượng liên tưởng đến những quái vật,
những hung thần trong các huyền thoại xưa nay. Cho nên đến Suối Ngổ, khách du
quan ít khi có cảm giác được lạc vào Đào Nguyên như khi chơi Suối Tiên, Suối
Đổ.
Lại
thêm không khí phía bên nầy hồ không được thoáng, bởi bốn mặt bị núi và cây đá
bao vây. Ngồi lâu thấy nực. Cho nên mọi người vào chơi đều thích tắm.
Nước
hồ trong và sâu lút đầu. Bơi lội rất thú. Và tắm xong lên nằm trên những tảng
đá bằng phẳng dưới bóng cây mà ngơi một giấc thì dễ xây nên mộng La Phù.
Song
nếu muốn thưởng thức thú gió rộng trời cao thì vịn đá vịn cây sang qua bên kia
hồ, theo bờ suối mà lên núi: Một vọng cảnh bao la từ Nha Trang trải trùm lên tận
Diên Khánh, thành một tấm thảm vĩ đại có trăm sắc đậm nhạt điểm lên trên màu
xanh. Thật vô cùng ngoạn mục.
Nhưng
không phải vì cảnh thú mà Suối Ngổ nổi danh.
Suối
nổi danh trước hết là nhờ ngôi chùa bên suối.
Ngôi
Chùa tục gọi là Chùa Suối Ngổ, sắc tứ Chí Linh Sơn Tự.
Cất
trên triền núi, phía đông Suối Ngổ, mặt ngó vào Nam. Kiểu thức không có gì đặc
biệt, quy mô không lấy gì làm rộng lớn. Nhưng có tiếng rất linh thiêng. Người
đau đến cầu thường khỏi. Người có tai nạn đến cầu thường qua. Và những lá xăm của
Chùa cho thì luôn luôn linh ứng.
Những
khách thập phương lui tới hầu hết chỉ để dâng hương cầu phúc. Nhưng khi về nhà
nói đến sự linh ứng của chùa thì phải nói đến tên chùa, mà tên dễ nhớ và ít lẫn
lộn với các chùa khác là tên tục. Do đó mà tiếng “Suối Ngổ” bay xa.
Trong
núi có con Cọp Mun rất hiền, hễ gặp người liền tránh.
Trước
chùa có một miếu nhỏ thờ “Sơn lâm chúa tướng”. Nơi miếu thỉnh thoảng con Cọp
Mun về nằm nghỉ ngơi.
Người
địa phương bảo rằng con Cọp Mun ấy cai quản tất cả các thú trong vùng núi Suối
Ngổ. Các giống cọp vện, tàu cau, xám tro không dám bén mảng đến..
Truyền
rằng: Một năm chùa làm chay vừa xong, người trong chùa và người đến cúng bị mỏi
mệt ngủ quên. Nửa đêm bị kẻ trộm vào dọn hết từ khí từ vật và chén bát nồi
niêu. Khổ chủ thức dậy, thất kinh. Toan kéo nhau đi tìm thì, chợt thấy một đoàn
người khiêng gánh kéo vào ngõ. Đoàn người vào chùa quỳ lạy vị trụ trì thú thực
rằng mình là ăn trộm và nói:
-
Chúng tôi xuống khỏi dốc thì gặp Chúa Sơn Lâm đứng dựng trên hai chân sau và
giơ cao hai chân trước, miệng gầm gừ nghe rợn tóc gáy. Chúng tôi quýnh cẳng,
cứng tay..., đứng im không nhúc nhích. Ngài cũng đứng yên. Thấy ngài không có ý
làm hại, chúng tôi mới hoàn hồn. Ngài ra dấu bảo chúng tôi trở lại. Biết rằng
mình làm việc quấy, mà ngài không nỡ hành tội, chúng tôi liền gánh đồ đạc trở
lại trả cho chùa, và xin lạy Phật lạy thầy cho chúng tôi sám hối.
Câu
chuyện lan truyền, làm cho Chùa Suối Ngổ nổi tiếng thêm.
Do
đó Suối Ngổ cũng thêm danh giá.
Lại
đồn rằng trên núi Suối Ngổ có Kỳ Nam.
Đáng
tin lắm vì kỳ nam và trầm hương là lâm sản của Khánh Hòa, mà trên núi Suối Ngổ
lại có nhiều cây Gió là thứ cây thường sanh kỳ nam và trầm hương.
Biết
rằng có kỳ nam trên núi, nhưng không ai dám manh tâm, bởi tin rằng của quỷ
thần, và có lính canh gác.
Lính
canh gác ấy là một thứ Chim, không ai thấy hình dáng ra sao, cũng không ai biết
rõ nhiều hay ít, mà chỉ nghe tiếng kêu. Tiếng kêu rất đặc biệt. Ban ngày nghe
như tiếng mõ, ban đêm nghe như tiếng chuông. Cứ kêu ba tiếng rồi nghỉ, nghỉ
giây lát rồi kêu ba tiếng nữa..., đều đặn khoan thai, thường xuyên, liên tục.
Tuy nghe hai thứ tiếng, và dường như chỉ có một con kêu. Nhưng người địa phương
bảo rằng chỉ có một thứ chim, và nhiều con kêu thay đổi. Biết được như vậy là
vì hễ khi nào có kẻ gian đến gần cây kỳ nam thì tiếng chuông tiếng mõ đổ liên
hồi, như chuông mõ đánh chữa lửa.
Khi
tiếng chuông mõ đánh dồn thì rắn độc thú dữ kéo đến đánh đuổi. Nếu kẻ gian
không bỏ lòng tham, còn trở lại nữa thì nhất định bị tai họa, không bị cọp chụp
cũng bị rắn cắn. May mà chạy thoát được, về nhà vẫn không sống được yên lành.
Đó
là một yếu tố nữa làm cho Suối Ngổ lừng danh.
D
SUỐI Ồ Ồ
Suối Ồ Ồ ở phía Tây suối Ngổ, thuộc địa phận thôn
Đại Điền Trung, quận Diên Khánh.
Suối
phát nguyên trong dãy núi cao nằm nơi ranh giới Ninh Hòa Diên Khánh. Có hai
nguồn chạy song song ở giữa ba nhánh núi thấp, từ Bắc vào Nam. Nguồn phía Tây
gọi là Suối Khô vì mạch thường bị đứt trong mùa nắng. Nguồn phía Đông gọi là
Suối Chà Vông vì hai bên bờ có nhiều mây chà vông mọc san sát.
Ra
khỏi núi, hai ngọn nguồn đổ xuống một gành đá đứng thẳng như vách và cao ngó
trật ót. Dưới chân gành, nước xói thành một hồ bán nguyệt, rộng trên một sào và
sâu chừng ba sải. Nước hồ tràn ra thành suối chảy quanh co ba bốn cây số mới
đến đồng ruộng.
Núi
nhiều cây nhiều đá. Chung quanh hồ và hai bên suối cũng có nhiều đá nhiều cây
chập chồng chen chúc. Phong cảnh thật tĩnh mịch thanh u.
Từ
hồ trở ra, Suối mang tên là Ồ Ồ.
Ồ
ồ là tiếng nước chảy, nước nguồn chảy xuống gành vào hồ bán nguyệt.
Suối
Tiên chảy róc rách. Suối Đổ và Suối Ngổ chảy ào ào như tuôn hoặc rào rào như lá
động, và tiếng suối bay lên không trung rồi tan trong mây gió.
Tiếng
Suối Ồ Ồ khác hẳn. Đã kêu ồ ồ mà dường như đọng lại chung quanh và vướng vào
cây đá, chớ không chịu bay đi. Tiếng rền lại nghe rất xa.
Có
lẽ do ảnh hưởng của vị trí.
Người
địa phương gọi gành đá tuôn nước xuống hồ kia là Sòng Tát.
Ở
hai bên đầu gành có nhiều vết lõm xuống trông mường tượng như dấu chân người.
Và trên mặt gành có một đường chạy dài như một giải lụa giăng ngang.
Truyền
rằng: Nước hồ bán nguyệt không bao giờ cạn. Xưa kia những năm hạn hán, mạch
suối đứt, Tiên thường đến tát nước về nguồn. Những dấu ở hai bên đầu gành là
dấu chân của Tiên, và dấu dài nơi mặt gành là dấu dây lưng của Tiên phơi khi
tát nước.
Vì
có tiên tát nước nơi gành nên gọi gành là Sòng Tát vậy.
Lại
truyền rằng: Suối Ồ Ồ rất linh. Những năm nắng hạn, các nhà chức trách địa
phương thường đến cầu đảo. Lễ xong lấy một hòn đá từ trên đầu gành lăn xuống
hồ. Nước bắn tung lên và sóng nổi cuồn cuộn. Liền đó một đám mây hiện ra, bay
lơ lửng trên không, ngay nơi cầu đảo. Rồi không nhiều thời ít, không kíp thời
chầy, một trận mưa đổ xuống...
Đó
là việc đời xưa, thời mà lòng người còn tin tưởng thần tiên. Hữu thành tất hữu
thần. Chớ ngày nay lòng mọi tầng lớp trong xã hội đều hướng vào khoa học Âu Mỹ,
dù có muốn cầu đảo chắc không còn linh ứng như xưa.
Tuy thế những chuyện thần tiên kia vẫn là
những món gia vị làm tăng thêm thú du ngoạn.
Còn
một món gia vị nữa thực tế hơn, là Cá.
Cá
vừa nhiều vừa lớn con. Vì ít người đến quấy rầy nên cá rất dạn dĩ. Khách du
lịch vào thăm Ồ Ồ đem theo một cần câu hoặc một cái lưới nho nhỏ, thì chỉ cần
mang cơm mang rượu chứ không cần mang đồ ăn.
Không
biết có phải vì Suối Ồ Ồ có điểm “khoái khẩu” nên được Đại Nam Nhất Thống Chí
nhắc đến trong khi tất cả các suối có danh khác trong tỉnh bị bỏ rơi.
Đ
Các dòng suối có phong cảnh kỳ mỹ, có những huyền
thoại lý thú, thường ở trong những vùng rừng rậm núi cao.
Quận
Vĩnh Xương là một quận tương đối ít núi cao rừng rậm hơn các quận trong tỉnh.
Nhưng ngoài Suối Ngổ ra, còn một cảnh suối nữa được du khách chú ý hơn cả Suối
Tiên, Suối Đổ, Suối Ngổ, Suối Ồ Ồ. Đó là:
SUỐI BA HỒ
Suối
phát nguyên trên đỉnh Hòn Son, cao 660 thước, chảy giữa hai triền núi đá xuống
thôn Phú Hữu ở phía Bắc, rồi vượt qua một cánh đồng rộng để xuống vũng Nha Phu.
Suối
mệnh danh là Ba Hồ vì trên thượng lưu có ba lỗ hủng to rộng, lúc nào nước cũng
đầy ăm ắp, mà người địa phương gọi là hồ.
Suối
Ba Hồ cách Nha Trang chừng 25, 26 cây số.
Từ
Nha Trang theo Quốc Lộ số 1 đi ra chừng 19 cây số thì có một con đường hương lộ
trẻ qua phía tay trái. Theo con đường ấy đi chừng bốn năm cây số nữa thì đến
nơi xe đậu. Từ đó đi bộ trên dưới một cây số thì đến khúc suối có cảnh hồ thứ
nhất.
Hồ
Thứ Nhất nằm dưới chân một thác nước cao chừng năm sáu thước.
Đó
là một vũng, nước xói thành lòng chảo. Rộng chừng một trăm, một trăm rưởi thước
vuông, rốn sâu chừng vài sải. Đáy hồ cát trải trắng, rải rác năm bảy hòn đá nằm
hoặc ló đầu lên khỏi mặt nước hoặc chìm lỉm trong lòng hồ. Chung quanh đá sắp
ngổn ngang, nhiều tảng thật to lớn. Nước trong hồ khi đầy thì tràn lên mặt đá,
khi lưng thì luồn qua kẽ đá mà tuôn ra ngoài rồi theo hướng Đông Bắc mà chảy
xuống biển.
Từ
Hồ Thứ Nhất, theo bờ suối đi ngược lên chừng trên dưới một cây số thì đến Hồ
Thứ Nhì.
Ở
nơi đây không có thác. Đá ngăn nước đọng lại thành hồ. Mặt hồ rộng dưới trăm
thước vuông. Lòng hồ chỉ lõm xuống chừng bốn năm tấc, không biết do nước xói
hay vốn trời sanh. Nước từ trên cao theo hai dòng quanh co trong đá chảy xuống,
nhập lại nơi hồ rồi mới chảy đi.
Từ
Hồ Thứ Hai đi lên nữa, chừng bốn năm trăm thước, thì đến Hồ Thứ Ba.
Hồ
nầy nằm dưới chân một ngọn thác chạy lài lài và đổ xuống thành lòng chảo. Hồ
nầy rộng và sâu thua hồ thứ hai. Bờ hồ thường bị nước khỏa lấp và mặt hồ chỉ
trông thấy dờn dợn. Cũng như lòng hồ thứ nhất và thứ nhì, lòng hồ nầy cũng có
nhiều cát và đá.
Mùa
mưa lụt, nước suối tràn trề, cả ba hồ đều không trông thấy. Đến mùa nắng hồ mới
“hiện nguyên hình”. Nước ở trên nguồn chảy xuống nhè nhẹ, lòng hồ không gợn
sóng, nhìn vào như một khối thủy tinh. Dù nắng mấy hồ cũng không bao giờ khô
nước.
Chính
Suối đã nhờ hồ mà có tên và nổi tiếng. Nhưng hồ đối với suối chỉ là những chiếc
huy chương trên ngực một võ tướng, thân dài vai rộng, hàm én râu hùm. Không đeo
những chiếc huy chương, tướng quân vẫn uy phong lẫm liệt:
Suối,
từ nguồn chí bể, dài trên dưới 10 cây số. Phần thượng lưu là phần quan trọng
đối với du khách, chiếm phân nửa.
Hai
bờ suối là hai triền núi cao. Từ bờ bên nầy sang bờ bên kia, chỗ rộng có trên
30 thước, chỗ hẹp nhất cũng đến 20 thước. Hình thế hiểm tuấn.
Trên
bờ suối, trong lòng suối, đá mọc ngổn ngang. Lớn có nhỏ có, chen chúc lẫn nhau,
chồng chất lên nhau. Tất cả đều một màu xam xám đen đen, nhưng thiên hình vạn
trạng. Lòng người muốn tạo nên hình gì thành ra hình nấy. Tâm hồn phong phú bao
nhiêu thì cảnh tượng kỳ mỹ bấy nhiêu. Kể không thể cùng, tả không thể xiết.
Chen
cùng sắc đá, dưới suối thì cát thì nước, trên bờ thì cây thì mây.
Cát
từng chòm từng giải, trắng phau phau. Chỗ thì trải rộng thành miền tự do, chỗ
thì khép mình dưới chân đá. Nước khi ẩn khi hiện, khi giăng dài trên cát, khi
luồn trong đá khuất khúc quanh co.
Còn
cây thì lớp lớp như rừng. Nhiều cây cao lớn, màu da lẫn với sắc đá, và rễ quấn
vào nhau, trên mặt đá có trong kẽ đá có, trông như những bầy trăn nằm nghỉ
ngơi. Càng lên cao, cây càng nhiều và càng to lớn. Trên cành những cây đại thọ,
phong lan bám tua tủa. Đến chơi gặp mùa lan nở thì lòng người phải say vì sắc
hương. Chim cũng rất nhiều. Nhiều nhất là giống chim bạc má, lông xám mỏ đỏ.
Lại có một giống chim lớn hơn chim bạc má, lông đỏ mỏ đen, không biết tên và
tuy chiếm thiểu số nhưng nổi bật giữa đám đông phi cầm. Chim và phong lan chỉ
có từ hồ thứ nhì và càng lên cao càng nhiều.
Phong
cảnh thật đẹp. Sắc thái lại thay đổi theo ngày giờ theo thời tiết. Cho nên ngắm
mãi không chán, đến luôn không nhàm.
Tất
cả các cảnh suối, mỗi cảnh có một vẻ đẹp riêng. Suối Tiên thì đẹp thanh nhã.
Suối Đổ, Suối Ồ Ồ thì đẹp chất phác. Suối Ngổ thì đẹp man dại. Đẹp hùng vĩ
nhưng không thiếu mỹ miều chỉ có cảnh suối Ba Hồ.
Suối
Ba Hồ có đôi nét phảng phất Suối Đổ, đôi nét mường tượng Suối Tiên. Giống Suối
Đổ ở điểm hồ, giống Suối Tiên ở chiều dài và cảnh cây chen đá lá chen mây.
Nhưng đặt Suối Đổ bên cạnh Suối Ba Hồ thì chẳng khác một em bé đứng bên cạnh
một người lớn. Đặt Suối Tiên bên cạnh Suối Ba Hồ thì có thể liên tưởng đến Thúy
Kiều với Từ Hải hay Ngu Cơ với Hạng Vương.
Đến
chơi Ba Hồ ngày xuân, ngày hạ. Nằm trên tảng đá bằng phẳng, dưới bóng cổ thụ
xanh tươi, nghe tiếng chim hòa tiếng suối, đón ngọn gió trộn mùi phong lan, thì
bóng dáng người tiên nơi động Từ Thức hay động Thiên Thai thế nào cũng đi về
trong giấc mộng.
Nhưng
đến vào mùa thu mùa đông, nhất là sau những ngày mưa lụt, thì những cảnh nên
thơ đều ẩn lánh. Nước từ trên đầu núi đổ xuống cuồn cuộn, ngàu ngàu, sóng lấp
cả đá, chuyển cả rừng, tiếng dội ầm ầm như sấm dậy. Đứng tận trên cao ngó
xuống, người yếu bóng vía không đủ can đảm đứng lâu.
Cho
nên Suối Ba Hồ chỉ quyến khách du quan vào mùa nắng ráo.
Truyền
rằng Ba Hồ rất linh thiêng.
Thời
phong kiến, những năm nắng hạn, người địa phương thường đến cầu đảo. Hương án
thường thiết nơi Hồ Thứ Hai. Lễ xong vị chủ tế lấy một hòn đá lớn kính cẩn
quăng xuống hồ. Thế là nội nhật làm gì cũng có mưa, nếu không mưa khắp hạt thì
cũng mưa trên nguồn đủ nước chảy xuống đồng ruộng.
Bởi
vậy người địa phương ít người dám lên chơi ở Hồ Thứ Hai, Thứ Ba.
Còn
du khách, vì trèo leo khó khăn, thường chỉ du ngoạn hồ Thứ Nhất, một số ít ráng
lên đến hồ Thứ Hai. Hồ Thứ Ba thì dành cho những người mạnh chân khỏe gối, và
có gan, bởi ngoài đá lớn cây to, thỉnh thoảng chúa sơn lâm cũng ra ngồi mát.
Khách
phong tao cũng thường đến Ba Hồ ngâm vịnh. Gần đây Định Phong đến chơi, có để
lại một bài hát ngậm ý cảm khái:
Hỡi mưu thần đất Việt,
Hỡi người đẹp Cô Tô:
Năm Hồ mây nước là mô,
Mà đây chỉ thấy Ba Hồ đá xây?
Đá lẫn cùng cây,
Mây xây cùng đá.
Suối tuôn lã chã,
Bóng ngã hình nghiêng.
Ai
người luyện thạch bổ thiên?
Nghìn
xưa núi chất còn nguyên đến giờ.
E
Ba Hồ ở gần cuối Vĩnh Xương và nằm giữa đèo Rù Rỳ ở
phía Nam và Ruột Tượng ở phía Bắc.
Từ
Ba Hồ ra đèo Ruột Tượng rồi đi thêm chừng năm bảy cây số nữa, thuộc địa phận
quận Ninh Hòa, thì có hai dòng suối nữa, danh tiếng tuy không được lẫy lừng như
các dòng suối kể tên, nhưng chứa đựng nhiều cảnh nhiều chuyện kỳ bí.
Đó
là: - Suối Đá Xẻ,
-
Suối Cát.
Hai
ngọn suối nầy ở hai xã, cách nhau, nhưng vẫn chảy vào một con sông là sông Cầu
Lâm.
SUỐI ĐÁ XẺ
Suối
nằm trong địa phận xã Ninh Lộc.
Từ
trụ sở xã đi lên Suối Ngả Hai, rồi lên Suối Ngả Ba. Đi khỏi Suối Ngả Ba thì đến
Trường Bơi.
Trường
Bơi là một khúc suối mở rộng, nước lênh láng và sâu lút đầu. Cá nhiều như cát.
Những
khi trời nắng hạn, hễ nghe có tiếng ào ào như tiếng nước chảy tiếng gió thổi, ở
nơi đây, thì biết rằng đó là báo hiệu trời sắp mưa.
Qua
khỏi Trường Bơi thì phải băng ngang một rừng cây rậm mọc toàn mà ca, trên triền
núi, tục gọi là Rượng.
Rượng
rất sầm uất thâm u. Sườn núi lài lài. Đến mùa ân ái voi kéo về đây để thi hành
nhiệm vụ “nối dõi tổ tông”. Voi cái đứng xiên xiên theo triền núi, đuôi thấp
đầu cao, và vòi quấn chặt vào cây mà ca, để chịu đựng cùng đấng phu quân có khi
nặng đến vài chục tấn. Ngày thường voi cũng hay tới lui nơi rượng, nhưng chỉ
một vài con, chớ không kéo từng đoàn như lúc “đi công tác” thường lệ.
Cho
nên người đi qua rượng phải để ý xem phân voi. Nếu thấy phân mới thì phải trở
lại ngay, vì ở Khánh Hòa voi dữ hơn cọp.
Dòng
suối băng qua rượng, chảy quanh co dưới bóng mà ca chập chờn trong đá, trong
bóng đá. Rượng vắng vẻ, suối quạnh quẽ. Người đi qua cảm thấy lành lạnh toàn thân,
nửa vì thần hồn nhát thần xác, nửa vì hơi nước suối hơi gió rừng.
Vì
vậy, mặc dù quanh cảnh trong rượng rất ngoạn mục, không mấy ai dám triền miên ở
lại để thưởng thức thỏa thuê.
Qua
khỏi rượng mà ca thì đến trảng tranh săng.
Trảng
rộng mênh mông và tranh săng xanh mịt mù. Khách không quen đường, rủi đi lạc
vào trong tranh thì nhất định phải bị khốn như Lục Tổn vào thạch trận của Gia
Cát Lượng. Nhưng nơi thạch trận có Hoàng Thừa Ngạn mở lòng nhân, chớ nơi trảng
tranh chỉ có giống người bốn chân “dĩ sướng thân vị bản”.
Cho
nên vào rượng mà ca phải đề phòng, mà lên trảng tranh săng cũng phải đề phòng
theo thủ tục.
Để
khỏi bị lạc, du khách cứ theo dòng suối mà tiến lên. Suối chảy trong tranh,
nhưng không bị tranh che khuất ánh sáng mặt trời như trong rượng mà ca. Lòng
suối nhuộm được sắc xanh của tranh, sắc xanh của trời, lại điểm thêm những bóng
mây trắng, tạo thành một cuộn gấm Thượng Hải màu thanh thu thêu hoa dệt lá.
Vừa
đi vừa ngắm cảnh, không mấy chốc thì đến một nơi cần phải chú mục chú tâm mới
vượt qua khỏi. Đó là ba đống đá chồng chất lên nhau, hô hê húc hỉu, có lỗ có
hang. Trên thực tế thì rất vững vàng, nhưng trông qua thì dường như gập ghềnh
gập gữ. Người địa phương gọi là: Gọp.
Gọp
nầy qua gọp kia chỉ một bước nhảy. Nhưng gọp có hơi cao, nước chung quanh có
hơi sâu, nên cần phải vững đầu gối mới mong khỏi xuống cung rồng hầu kiện.
Nhảy
qua khỏi ba gọp nầy thì cũng như Quan Vân Trường qua khỏi ngũ quan.
Du
khách đi một chặng đường ngăn ngắn nữa thì thấy nơi triền núi, đá xẻ ra thành
một cái hang lộ thiên nằm ngay trên đầu suối.
Hang
hình khối chữ nhật. Cao ngó trật ót, rộng trên dưới ba thước, ăn sâu vào lòng
núi chừng năm thước. Phía trước là nước suối. Trên đầu và hai bên hông là vách
đá. Vách hậu đầu hơi lài lài. Hai vách hông đứng sững và bằng bặng như vách
xây.
Hang
đã ăn sâu vào triền núi, lại còn ăn sâu xuống lòng đất, tạo thành một cái hồ
hình chữ nhật, sâu đến vài ba sải. Hồ mệnh danh là:
HỒ ĐÁ XẺ
Hồ
và hang là một, như ngực với bụng đối với khúc mình con người. Để giản tiện hóa
việc xưng hô, người địa phương gọi chung là “Hồ Đá Xẻ”.
Nước
trên nguồn theo triền núi chảy xuống hồ. Nước trong như lọc. Đứng trên miệng hồ
nhìn suốt đáy. Những bầy cá bơi lội trong hồ, trông thấy rõ ràng từng cái vảy.
Lấy một cắc bạc quăng xuống hồ chúng ta nhận được cả những tia ánh sáng phát
sinh. Hơi nước bốc lên mát lạnh. Trời nắng nực, đi mệt tháo mồ hôi, lên đến mé
hồ liền thấy khỏe khoắn, khoan khoái.
Nước
nguồn chảy xuống hồ, hồ tràn thành suối.
Suối
lấy hồ làm nguồn, nên từ hồ đến Ninh Lộc, suối mệnh danh là Suối Đá Xẻ.
Và
vì núi có đá xẻ thành hồ nên người địa phương gọi luôn là Núi Đá Xẻ.
Nơi
triền núi phía bên phải hồ, một tảng đá xanh vừa rộng vừa lớn dô ra như một mái
hiên. Dưới mái hiên nền đá bằng phẳng, có thể nằm được vài chục người. Người ta
gọi là: Nhà Đá.
Những
khách lên chơi hồ thường đến nghỉ ngơi và đụt mưa nắng.
Nơi
triền núi phía bên trái hồ, lại có một cảnh vườn rộng và xanh tươi suốt năm.
Trong vườn có đủ thứ trái cây. Nhiều nhất là cam.
Cam
rất sai trái và trái rất lớn. Thấy cam chín đỏ mọng và hương bay thơm ngát,
không ai không thèm. Nhưng chớ vội mà cực thân.
Cam
ngọt lắm, ngon lắm. Ăn vào thích thú phi thường. Nhưng ăn xong thì thấy khó
chịu trong cổ, nếu không bị sặc đến ngút hơi, cũng phải khạc đến rách cuống
họng. Do đó người địa phương gọi là:
Cam
Sặc hay cam Khạc.
Đó
là giống cam có chất độc. Nhưng những người mê tín bảo rằng vườn kia vốn của
quỷ thần, người đời xâm phạm, nên bị trừng phạt.
Vì
bị cam làm khổ rồi, nên không ai dám nếm thử các giống trái khác.
Lên
đây, cữ ăn trái rừng, nhưng có một món ăn khác rất ngon, rất bổ, quỷ thần không
cấm người tri vị cũng không cấm bạn dân thiên. Đó là giống Chà Khé.
Chà
Khé hình thù giống như cua biển và cũng lớn bằng cua biển. Thịt ngọt. Ăn sống
được. Chúng nằm dưới gọp đá. Muốn ăn, chỉ có việc dỡ những hòn đá ở quanh suối,
bắt bẻ đôi ăn với lá giang mọc đầy đường. Nếu có sợ vi trùng ẩn náu trong thịt
thì nhúm lửa nướng như nướng cua. Ăn đến no, không sợ phá bụng cũng không sợ
phát ách.
Không
cần muối. Nhưng có tí muối tiêu nữa thì thật là “thơ bất tận ngôn”.
Bợm
rượu mà vớ được chà khé thì không “dục tiêu sầu” cũng “thả tự do”. Mùi vị thật
đặc biệt, không biết lấy món gì mà ví cho ổn.
Cho nên muốn hưởng hết thú vụ của Suối
Đá Xẻ phải đi nhiều ngày. Đến Trường Bơi ăn cá. Lên rượng mà ca rình xem voi.
Đến hồ Đá Xẻ thưởng thức chà khé. Đó là những món gia vị vào cảnh thiên nhiên
của non nước, làm cho du khách thêm khoái mục khoái tâm.
Còn
một điểm nữa khiến cho Suối Đá Xẻ có tiếng. Đó là sự linh ứng trong việc cầu
đảo.
Truyền
rằng những khi hạn hán, người địa phương thường đến Hồ Đá Xẻ, thiết hương án mà
cầu. Cầu xong lấy một hòn đá ném xuống hồ. Mặt hồ đương im vung nổi sóng. Sóng
động lòng hồ động luôn lòng trời in đáy nước.
Cũng
như ở Ba Hồ quận Vĩnh Xương, lòng trời ở Hồ Đá Xẻ động thì không kíp thời chầy
thế nào cũng có mưa.
Xưa
bày nay làm, và làm thường có kết quả. Nên dù sống trong đời khoa học thịnh
hành, người địa phương vẫn tin ở sự linh ứng của Thần Phật. Và Hồ Đá Xẻ khởi
điểm của Suối Đá Xẻ nổi tiếng là linh thiêng.
G
SUỐI CÁT
Ở
phía Tây Núi Đá Xẻ, nằm trong địa phận xã Ninh Hưng.
Từ
thôn Tân Hưng đi vô Đồng Nẩy thì đến Suối Cát.
Trên
bờ dưới nước toàn cát. Và cát trắng phau phau.
Hết
cát đến đá. Đá mọc ngổn ngang, trên bờ có dưới nước có. Hòn to hòn nhỏ, lớp
ngửa lớp nghiêng, hình trạng bất nhất.
Suối
cát chảy dưới đồng bằng.
Suối đá chảy trong rừng, và chảy dọc
theo triền núi, khúc quanh khúc thẳng, khi chạy dọc khi đâm ngang. Nước chảy
rất mạnh, tiếng nghe rào rào như gió tạt lá rung.
Rừng
sâu thăm thẳm. Cây cao rậm che khuất cả bóng mặt trời. Phần nhiều là cây gió.
Chen cùng cây, đá hòn hòn lớn như đống rơm, kỳ hình dị dạng. Nhưng tuyệt nhiên
không có gai.
Cứ
theo suối đi lên mãi thì đến Ao Bà.
Ao
Bà đối với Suối Cát cũng như Hồ Đá Xẻ đối với Suối Đá Xẻ. Nguồn còn ở trên núi
cao, song suối lấy Ao Bà làm khởi điểm.
Ao
Bà rộng chừng ba bốn sào ruộng, và sâu không biết bao nhiêu, vì chưa ai dám
xuống thử. Chung quanh ao, đá nằm ngổn ngang, lớp nầy chồng lên lớp nọ, thành
hố thành hang.
Ao
nằm dưới chân một ngọn thác cao, hai bên là núi.
Nước
trên thác chảy xuống tiếng dội vào vách núi, nghe ầm ầm như sấm.
Nước
thác chảy xuống ao, ao tràn chảy ra suối. Tứ mùa tám tiết không tiết nào khô.
Ở
ngoài đi vào, nơi sườn núi phía bên hữu ao, có một tảng đá to lớn nhô ra như
một mái hiên. Dưới mái hiên, một cái hang đá ăn sâu vào núi, cao rộng có thể
chứa được vài ba chục người, trông như một cái nhà đá.
Nơi
sườn núi phía bên tả ao, lại có một tảng đá rộng lớn và bằng phẳng như một bộ
ván ngựa kê trên những gọp đá, dưới chân có nhiều hang hầm hố hốc thông thương
với nhau.
Bộ
phản ngựa đá nầy đối diện cùng ngôi nhà đá kia, nhưng nằm dưới thấp. Còn ngôi
nhà đá thì ở nơi lưng chừng. Có thể ví nhà đá là trang thờ, còn phản đá là cái
kệ để đứng làm lễ.
Cảnh
tượng hùng vỹ hơn Hồ Đá Xẻ nhiều lắm.
Hồ
Đá Xẻ là một vị quan văn, khoan hòa nghiêm chỉnh. Ao Bà là một vị tướng võ mạnh
bạo, nóng nảy và lúc nào cũng muốn ra oai.
Cho
nên đứng trước Ao Bà, lòng người có phần sờ sợ.
Ao
Bà cũng như Hồ Đá Xẻ, rất linh.
Những
người đi tìm trầm, vào đây đều phải dâng lễ vật cầu khẩn.
Người
ta cầu bà Thiên Y A Na. Vì trầm hương, kỳ nam ở đất Khánh Hòa nầy đều của Bà
cả. Bà cho ai nấy được. Nếu Bà không cho thì dù đứng trước cây trầm cây kỳ cũng
không nghe thấy mùi hương.
Truyền
rằng Bà thường đến nghỉ chơi nơi ao. Do đó mới gọi là Ao Bà.
Chung
quanh ao đều là rừng sâu. Cây gió rất nhiều. Cây gió là giống cây sanh ra kỳ
nam và trầm hương. Mà những nơi có nhiều trầm kỳ là những nơi có nhiều cọp.
Truyền rằng một số cọp đó là những người ngậm ngải tìm trầm hóa thân sau khi ngải
tan hết. Cho nên có nhiều con cọp trông thấy người, ứa nước mắt rồi bỏ đi. Nếu
lấy ngải đốt xông thì cọp hiện nguyên hình người như cũ.
Nhưng
đó chỉ mới “bách văn” chớ chưa mấy ai được “nhất kiến”.
Đối
với Ao Bà, mặc dù phong cảnh kỳ mỹ, khách du quan ít người tới lui. Bởi vì
chẳng những sợ cọp, mà còn ngại đường xa. Từ Suối Cát đến Ao Bà, phải mất ít ra
cũng một ngày nếu theo bờ suối, và phải mất trọn một buổi nếu đi đường tắt băng
qua rừng.
Cho
nên biết tường tận Ao Bà chỉ có những người thợ săn, thợ rừng và những người đi
tìm trầm.
Thời
Tiền Chiến, vào khoảng 1935, 1936, có một tu sĩ khất thực, người Huế, từ Suối
Cát đi vào rừng, ngồi nhập định bên một tảng đá cao bên bờ suối.
Khi
tu sĩ vào rừng thì người địa phương trông thấy. Nhưng ai cũng tưởng tu sĩ vào
ngắm cảnh rồi trở ra nên không ai lưu ý.
Cách
mấy tháng sau thợ rừng đi làm súc trông thấy tu sĩ ngồi chết khô trên đá. Lý
hương và đồng bào thôn Tân Hưng được tin liền kéo vào rừng chiêm ngưỡng.
Tu
sĩ ngồi kiết già, đôi mắt nhắm, trông như một tượng gỗ. Không một mùi hôi,
không một con ruồi một con kiến bu đậu. Tấm vải vàng khoác trên thân, chiếc
bình bát đặt bên gối, trải nắng sương mưa gió, vẫn giữ hình sắc lúc tu sĩ bước
vào rừng.
Đồng
bào không dám rờ tay vào thi thể tu sĩ. mỗi người rinh một viên đá chất chung
quanh thành một ngôi mộ cao rộng và kiên cố.
Từ
ấy đường từ Suối Cát vào Ao Bà đã ít người đi lại càng ít thêm, vì người đời sợ
quỷ thần và người chết hơn sợ cọp.
*
Ngoài
những suối kể trên, Khánh Hòa còn nhiều nơi khác nữa. Nhưng không có danh và
đường đi nguy hiểm. Nên du khách đến Khánh Hòa dù yêu mến phong cảnh đến đâu
cũng chỉ đến Suối Cát, Suối Đá Xẻ rồi trở vào Nha Trang để đi tìm những nơi
danh thắng khác.
*
V
Ở Khánh Hòa thắng cảnh nhiều hơn cổ tích.
Thắng
cảnh chúng ta đã xem qua những nơi có thể đến xem được.
Còn
cổ tích thì có:
-
Tháp Poh Nagar tức Tháp Bà chúng ta đã thấy rồi.
-
Phế lũy Chiêm Thành ở vùng Bắc Vĩnh Xương. Thời Gia Long còn một đoạn. Niên
hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) bị san bằng. Hiện không còn dấu tích.
-
Bia Võ Cạnh, bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ Phạn. Theo các nhà khảo cổ thì bia
nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để định biên giới của Phù Nam và Chiêm Thành.
Bia
dựng dưới một gốc cổ thọ làng Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương, bị cỏ bìm phủ lấp không mấy người để ý (xem cước chú).
Đó
là di tích của Chiêm Thành.
Còn
của người Việt Nam thì có:
-
Lục Đồn là một đồn bằng đất ở phía Đông Nam núi Trại Thủy. Chu vi 36 trượng 4
tấc, cao 7 thước 5 tấc. Không biết đắp thời nào. Sau khi Nguyễn Ánh thắng được
nhà Tây Sơn, có tu bổ lại để phòng ngự mặt biển. Qua triều Minh Mạng, bị phá
hủy. Hiện không còn dấu tích.
-
Thành Diên Khánh ở cách thành phố Nha Trang 10 cây số về hướng Tây. Đây là một
di tích lịch sử của người Việt Nam còn sót lại trên đất Khánh Hòa.
-
Lăng Bà Vú ở Ninh Hòa.
A
THÀNH DIÊN KHÁNH
Thành
nằm trên địa phận hai thôn Phú Mỹ và Trường Thạnh (nay là thôn Khánh Thành, xã
Diên Thạnh). Chung quanh đắp đất, chu vi 336 trượng 4 thước, cao 8 thước 5 tấc.
Trổ 6 cửa ra vào, xây gạch kiên cố, trên có vọng lâu tứ diện thông phong.
Ngoài
thành có hào sâu 8 thước, rộng 4 trượng, và luôn luôn đầy nước do sông Cái tháo
vào.
Để
ra vào, trước các cửa thành đều có xây cầu vồng bằng gạch.
Chung
quanh hào lại có lũy bao bọc và có trại canh gác.
Cho
nên thành tuy bằng đất nhưng rất kiên cố. Địch muốn công phá không phải dễ
dàng.
Thành
Diên Khánh do Nguyễn Phúc Ánh xây đắp năm Quý Sửu (1793) [13].
Ban
sơ, các cửa thành đều bằng đất, và có đến sáu cửa. Năm Thiệu Trị thứ bảy (1847)
lấp bớt hai cửa và xây bốn cửa gạch kiên cố. Đến thời Pháp thuộc lại lấp thêm
hai cửa Tiền và Hậu. Hiện nay chỉ còn cửa Đông và cửa Tây.
Từ
đời Gia Long đến cuối thời Pháp thuộc, Thành Diên Khánh là nơi đóng cơ quan đầu
não địa phương của nhà Nguyễn.
Trong
thành có Hành Cung của nhà vua, có dinh thự của các quan thủ hiến, có những Ty,
Tào, đồn, trại. Tòa ngang dãy dọc, kèo chạm cột sơn... Quang cảnh thật trang
nghiêm khang phú.
Phong
quang rực rỡ nhất vào thời Thiệu Trị (1840-1847) Tự Đức (1847-1883).
Đến
cuối triều Hàm Nghi, năm Ất Dậu (1885), nghĩa binh Cần Vương lấy làm cơ sở
kháng chiến. Quân Pháp nã đạn đại bác vào tàn phá hết một số dinh thự [14].
Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp liền phá hủy vòng lũy
và lấp cạn vòng hào ở quanh thành, lại triệt hạ cửa tiền và cửa hậu. Từ ấy cảnh
hào hoa mỗi ngày mỗi giảm sút.
Mùa
xuân năm Ất Dậu (9-3-1945) Nhật đảo chánh Pháp. Quyền cai trị giao cho Triều
Đình Huế. Cơ quan tỉnh Khánh Hòa bỏ thành Diên Khánh, dời xuống Nha Trang. Cơ
quan hành chánh phủ Diên Khánh dời vào thành. Lúc bấy giờ dinh thự đã hư quá
nửa vì lâu đời. Quang cảnh thật tiều tụy.
Sang
thời chiến tranh Việt Pháp, những công thự trong thành hoàn toàn bị phá hủy.
Hiện nay dấu xưa còn lại chỉ có nhà lao xây đá ở gần cửa Đông!
Còn
vòng thành bằng đất, trên 80 năm trời mưa nắng, không được bồi đắp, nên trụt
thấp lần lần. Lại thêm bìm lau xâm lấn, trông không còn vẻ hùng tráng của ngày
xưa.
Tuy
vậy, đối với những người háo cổ, một viên gạch xưa còn sót lại vẫn là vật đáng
giá vàng châu. Cho nên đã không đủ sức gìn giữ thành Diên Khánh cho trọn vẹn
như ngày xưa, tưởng không nên nhẫn tâm phá hủy như thành Quảng Nam, Bình Định.
Truyền
rằng từ ngày giặc Pháp đánh thành Diên Khánh, ngoài một số chiến sĩ ra, lương
dân trong thành nhiều người bị thiệt mạng. Oan hồn không tiêu, hóa thành ma
quái. Những đêm thanh gió mát, người ta thường trông thấy bóng ma đi thơ thẩn
chung quanh dinh trại và hành cung. Có lắm người bị vương vẩy, phải cúng kính
mới nạn khỏi tai qua. Hay quấy phá nhất là ba nữ quái, tục gọi là Ba Cô.
Ba
Cô, cô nào cũng trẻ cũng đẹp. Nhiều khi hiện hình cả lúc ban ngày và nói cười
như người sống. Những chàng trai trẻ không biết, có điều bất kính, thường bị
bắt đau ốm có khi đến điên cuồng.
Quan
Tỉnh lo sợ lập một am nhỏ ở trước dinh thờ phụng. Từ ấy bớt tác quái và ai cầu
gì cũng linh thiêng.
Am
ấy tục gọi là Am Cô. Thời Pháp thuộc, tất cả các quan đầu tỉnh đều tỏ lòng cung
kính. Khói hương không mấy lúc tàn.
Dưới
triều Thành Thái (1889-1907) một viên thừa phái trẻ tuổi, có tiếng là háo sắc,
đổi vào làm Ty Niết Khánh Hòa. Thầy thừa ăn cơm tháng nhà bạn và mướn nhà ở
riêng một mình.
Một
đêm ngồi một mình, thấy có bóng người qua qua lại lại ở trước ngõ, dáng như chờ
đợi cuộc hẹn hò. Thầy thừa bước ra xem thì thấy một người con gái có nhan sắc.
Buông lời trêu ghẹo. Người con gái nhoẻn miệng cười. Lại gần cầm tay. Không
chút kháng cự. Thích quá kéo vào nhà bày chuyện mây mưa.
Sáng
hôm sau không thấy thầy thừa đến Ty, quan cho người đến gọi. Trước sau vắng vẻ.
Xô cửa vào phòng, thấy thầy Thừa cùng một mụ ăn mày rách rưới bẩn thỉu ôm nhau
nằm ngủ ngon lành. Đánh thức dậy, thầy thừa hoảng hốt, mụ ăn mày cũng hoảng
hốt, bỏ chạy như người điên.
Sau
khi bình tĩnh trở lại rồi, thầy thừa mới thú thật mọi nỗi. Ai nấy đều cho là bị
ma mà mắc, trông gạch nát hóa vàng mười! Và ai cũng đoán chắc rằng là Ba Cô
trừng trị để thầy chừa thói trăng hoa. [15]
Dưới
triều Duy Tân (1907-1916) lại xảy ra một chuyện nữa, cũng như chuyện trên, khó
tin rằng có, khó ngờ rằng không!
Thời
bấy giờ cụ Đào Phan Duân, đậu phó bảng, người Bình Định, ngồi Tuần Vũ. Nhân
ngày Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 (Gia Long phục quốc), cụ rước bạn hát Bình Định
vào hát mừng. Các kép nổi danh trong tỉnh đều có mặt. Cầm đầu toàn ban là Bát
Phàn, Cửu Khi và Chánh ca Đựng.
Ngày
mồng 2, sau khi bái mạng ở Hành Cung rồi, thì khởi sự hát cho đến xế. Buổi
chiều bạn hát nghỉ để dưỡng sức hát buổi tối.
Đèn
vừa đỏ, trong dinh tuần vũ, các quan cùng thân hào nhân sĩ lo vào tiệc để rồi
đi xem hát cho sớm. Ngoài rạp, đào kép đã vẽ mặt bận áo xong xuôi, ngồi đợi các
quan ra khai mạc.
Bát
Phàn, Chánh ca Đựng và Cửu Khi đương ngồi uống nước dưới trang Tổ, chợt thấy ba
người thiếu nữ ăn mặc theo kiểu thành thị và toàn đồ trắng, má phấn môi son,
đầu trần, tóc bỏ xõa, vẹt màn bước vào, tươi cười nói:
-
Lũ bay ra làm tuồng cho chị em ta coi. Khi sáng mắc đi vắng không được thưởng
thức tài nghệ Bình Định.
Mọi
người đều tưởng là người trong dinh. Bát Phàn đáp:
-
Chúng tôi không được lệnh. Nếu quý cô muốn xem sớm thì vào xin phép cụ.
-
Lũ bay vào xin đi.
-
Chúng tôi không dám.
-
Chị em ta cũng không dám,
Nói
rồi biến mất. Chừng ấy mới biết là ma.
Thấy
trước dinh tuần vũ có am thờ, anh em nghệ sĩ hỏi ra mới hay ma đó là Ba Cô thờ
trong am. Ai nấy đều thất kinh!
Câu
chuyện không mấy chốc truyền khắp tỉnh Khánh Hòa rồi truyền ra đến Bình Định.
Lúc
cụ Đào Phan Duân làm Tuần Vũ Khánh Hòa thì ông Nguyễn Đình Văn làm Án Sát.
Quan
án đàn rất hay.
Một
đêm quan đốt trầm, một mình ngồi gảy đàn, thì bỗng nghe tiếng họa từ trong vách
đưa ra. Âm thanh tuyệt diệu. Quan ngờ rằng Ba Cô ngoài am trêu cợt, nên bình
tâm chính ý ngồi gảy cho hết khúc đàn.
Khúc
đàn dứt, một người đàn bà diễm lệ xô cửa bước vào. Quan án giật mình! Người đàn
bà cười, nói:
-
Thiếp không phải là một trong Ba Cô thờ nơi am, mà là người có lương duyên cùng
quan án.
Nói
đoạn, ung dung đến ngồi nơi kỷ và tiếp:
-
Thiếp là ma, nhưng không có tà ý. Cảm phục tiếng đàn của quan lớn nên không nề
u hiển, đến xin được kết duyên sắc cầm.
Người
đẹp như hoa, giọng nói trong như ngọc. Trong đêm thanh vắng, không mấy ai có
thể làm Liễu Hạ Huệ hay Nhan Thúc Tử, mặc dù biết đó là ma.
Cho
nên quan án Nguyễn Đình Văn đã cùng người đẹp vầy cuộc ái ân, nơi văn phòng
tĩnh mịch. Đêm nầy sang đêm khác, “đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm”. Nhưng người
ngoài và cả vợ con trong nhà không một ai hay biết.
Một
hôm quan án, sau buổi làm việc, đến chơi dinh Tuần Vũ. Cụ Đào cầm lại ăn cơm
tối rồi đánh tổ tôm cho vui. Ông Nguyễn từ chối. Cụ Đào có ý bất bình. Ông
Nguyễn phải đem chuyện kín của mình ra thú thật, và nói:
-
Ban ngày đi đâu thì đi, làm gì thời làm. Nhưng từ lúc mặt trời lặn cho đến gà
gáy sáng thì phải dành trọn cho nàng. Có việc thì phải báo trước. Nếu không tất
bị nhiều chuyện cực lòng.
Cụ
Đào tin lời, không nỡ ép.
Sau
đó ông Nguyễn được thăng Phủ doãn Thừa Thiên. Người đàn bà ma cũng theo về Huế.
Không bao lâu quan Phủ Doãn thất lộc. Không biết tại số hay tại ma.[16]
Cuộc
đời trải nhiều dâu bể. Những chuyện xưa, hoang đường cũng như thực hữu, đã cùng
cung đình dinh trại trong thành Diên Khánh, theo mây khói tan vào cõi hư vô.
Hiện nay cơ quan hành chánh quận đóng trong thành. Cảnh vật đã thay đổi mới.
Những người qua lại hằng ngày cũng như những người đến thăm chơi chốc lát,
không mấy ai đi sâu vào những lấp cỏ mờ rêu, để bâng khuâng chút lòng cảm cựu.
Gần
đây Cổ Bàn Nhân đến viếng thành, có mấy vần cảm tác:
Thành cũ đìu hiu vách nắng mưa,
Phong quang một mảnh bể dâu thừa.
Cờ lau phất gió cung rồng lấp,
Búa nguyệt mài sương ngục thép
lưa!
Theo mới bụi lầm xe ngựa mới,
Tìm xưa tro lạnh miếu am xưa!
Bên hào sen lụn chân dừng bước,
Tiếng địch chiều thu trận cúc
đưa.
B
LĂNG BÀ VÚ
Lăng
ở thôn Mỹ Hiệp, cách quận lỵ Ninh Hòa chừng một cây số.
Kiểu
thức rập theo các lăng vua ở Huế. Tuy không nguy nga tráng lệ bằng lăng vua,
nhưng ở miền Nam Trung Việt không thấy ngôi mộ nào có thể sánh về quy mô cũng
như về kiến trúc.
Lăng
nằm dưới chân một ngọn đồi, mặt hướng về Đông Nam. Hình chữ nhật. Có ba lớp
thành:
-
Thành ngoại, chiều ngang chừng 12 thước, chiều vô ra chừng 20 thước, chiều cao
chừng một thước năm. Ở mặt trước có chừa cửa. Hai bên cửa có hai trụ ba biểu
đội hai con kỳ lân ngồi đối diện. Phía trong cửa một bức bình phong cao rộng
đứng chắn ngang. Lưng thành cao hơn mặt thành và xây hình cánh cung.
-
Qua khỏi bình phong đến lớp thành thứ nhì. Cao chừng một thước. Cửa thành núp
sau bình phong, và hai bên cũng có hai con kỳ lân ngồi đối diện.
- Vào khỏi cửa đến lớp thành thứ ba ôm
lấy phần mộ. Thành thấp. Phía trước có nhà bia khắc bài ký ghi công đức của
người dưới mộ.
Trên
mặt tường phía trong lăng đắp nhiều hình ảnh nhiều tranh cảnh, nét đắp tinh
xảo, như lưỡng long triều nguyệt, ngư tiều canh mục, Trúc Lâm thất hiền...
Lăng
nầy của vua xây.
Truyền
rằng: [17]
Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh. Chạy đến Mỹ Hiệp thì trời vừa tối.
Bộ hạ vừa mệt vừa đói, Nguyễn Ánh lại thụ bệnh, không thể đi được nữa. Tình
cảnh thật nguy khốn. Một người đàn bà trong thôn thấy vậy, đem về nhà cho ăn
uống và lo thuốc thang. Nhờ đó mà thoát nạn.
Đến
khi lên ngôi cửu ngũ, Nguyễn Ánh nhớ công ơn, muốn đền đáp, thì người ơn đã qua
đời. Không rõ tên họ là gì nhà vua bèn phong hiệu là Nhũ Mẫu tức Bà Vú và
truyền bộ Công đưa thợ vào xây dựng lăng. Nhà vua lại cấp cho một sở ruộng giao
cho làng sở tại làm ruộng hương hỏa.
Mỗi
năm đến ngày kỵ của bà, là ngày 12 tháng chạp âm lịch, quan tỉnh Khánh Hòa phải
đứng ra chủ tế.
Lệ
ấy từ ngày Pháp đô hộ Việt Nam, không còn thi hành nghiêm chỉnh. Và đến ngày toàn
dân đứng lên chống Pháp, thì bỏ hẳn.
Ngày
nay hương khói đã lạnh lùng mà phần mộ của bà cũng bị bìm lau lấp kín. Đường đi
đến lăng lại bị phá hoại. Khách du quan muốn đến viếng không thể nào đi đến
nơi!
* * *
Về
Cổ Mộ Khánh Hòa còn nhiều như:
-
Ngôi mộ ở sau trường Võ Cạnh, quận Vĩnh Xương.
-
Ngôi mộ ở trước chùa Kim Liên tại ấp Đông Dinh quận Diên Khánh.
-
Vân vân...
Nhưng
kiểu thức không có gì đặc biệt.
Ngôi
mộ ở Võ Cạnh truyền là của một vị tướng bị tử trận, đầu bay từ nơi chiến trường
về đến làng quê. Nhưng hỏi họ tên và thời đại, người địa phương ở gần mộ đều
cười “thông qua”.
Còn
ngôi mộ trước chùa Kim Liên của ai cũng không ai biết. Nơi bia chỉ khắc “Tổ
khảo chi mộ” và hai bên khắc câu đối:
Thiên sanh tàng bạch cốt,
Vạn cổ giám trung trinh.
Nghĩa
là:
Nghìn đời chôn cốt trắng,
Muôn thuở rạng lòng trung.
Mộ
quay đầu ra Bắc, chân trở vào Nam. Lấy hòn Dữ ở Diên Khánh làm hậu đầu và hòn
Đồng Bò ở phần đất Diên Khánh làm tiền án.
Theo
cách phân hướng và tinh thần câu đối, thì người trong mồ là người có quyền vị
của thời trước chớ không phải người bạch đinh.
Nhân
nói về Lăng Bà Vú, cũng nói qua cho vui vậy.
*
* *
VI
NHỮNG NƠI THỜ PHỤNG
Coi
như thắng cảnh cổ tích những nơi thờ phụng, như đền miếu, chùa chiền, xây cất
đã trên trăm năm, hoặc dưới trăm năm mà có những dấu tích cũ, sự tích xưa đáng
lưu truyền, hay có những phong cảnh đẹp, kiến trúc lạ đáng thưởng ngoạn.
Về
phương diện tôn giáo không đề cập ở chương nầy. Nếu có nói qua, cũng chỉ để tô
điểm cho cảnh vật mà thôi. Điều cốt yếu là đưa ra những cái xưa, cái lạ, cái
đẹp, cái thú trong những cảnh vật hoặc đã mất hình nhưng còn bóng, hoặc đương
còn hình tướng nhưng cái còn đó chỉ là hậu thân...
A
ĐỀN MIẾU
Tỉnh
Khánh Hòa, cũng như các tỉnh khác ở Trung Việt, thời xưa đều có đắp những đàn
để tế Trời Đất, tế Núi Sông, tế Quỷ Thần, như:
-
Đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
Đó
là đàn tế Trời Đất, dựng năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Đàn lộ thiên. Hai tầng
đắp bằng đất. Tầng dưới vuông 10 trượng 4 thước 5 tấc, cao 1 thước 3 tấc. Tầng
trên vuông bốn trượng hai thước 3 tấc, cao 2 thước 5 tấc. Mặt xây về hướng Bắc.
Đàn
Xã Tắc ở các tỉnh là hình ảnh thâu nhỏ của Đàn Xã Tắc ở Kinh Đô Huế.
Quan
đầu tỉnh thay mặt nhà vua đứng tế.
-
Đàn Tiên Nông ở ngoài cửa Đông thành Diên Khánh.
Đàn tế Thần Nông. Xây năm Minh Mạng thứ
13, sau khi xây xong đàn Xã Tắc. Đàn cũng bằng đất, một tầng. Vuông 3 trượng 6
thước, cao 2 thước bảy tấc.
-
Đàn Sơn Xuyên ở ngoài cửa Tây thành Diên Khánh.
-
Đàn tế Sông Núi. Xây năm Tự Đức thứ 5 (1852). Một tầng. Cũng bằng đất, cao rộng
tương tự đàn Tiên Nông.
Những
đàn nầy đã đổ nát từ ngày phong kiến nhường bước cho thực dân và hiện nay đã bị
cào bằng thành bình địa không còn mảy may dấu tích!
Đó
là những nơi tế tự dành riêng cho giai cấp cai trị địa phương.
Chung
cho mọi tầng lớp nhân dân là các đền các miếu.
Những
đền miếu quan trọng, tên được ghi vào sử sách, thân còn vững với nắng mưa, hiện
nay không còn được mấy.
Ở
Diên Khánh có:
-
Miếu Thái Tử,
-
Đền Thiên Y A Na,
-
Miếu Văn Thánh,
-
Miếu Thành Hoàng,
-
Miếu Hội Đồng.
Ở Vĩnh Xương có:
-
Miếu Sinh Trung,
-
Đền Quá Quan.
Ở
Vạn Ninh có:
-
Đền Mã Cảnh,
-
Đền An Lương.
Còn
một số ít nữa, tên tuy không thấy trong sách vở, nhưng danh được miệng thế
truyền đi xa, như:
-
Miếu Cây Dầu Đôi, Cây me ở Diên Khánh,
-
Miếu Lỗ Lườn ở Ninh Hòa, vân vân.
Những
đền miếu nầy, quy mô không được rộng lớn, kiến trúc không có gì kỳ mỹ, cách
trang trí cũng không lấy gì làm sang trọng xứng đáng với những vị thờ trong
miếu trong đền. Lại thêm không được săn sóc thường xuyên, nên quang cảnh nhiều
nơi hết sức tiêu điều ảm đạm. Người vãng cảnh nếu không nặng lòng cảm cựu thì
không mấy ai có thể đứng lâu.
MIẾU THÁI TỬ
Ở tại Xuân Đài, thôn Phước Lương, xã Diên Phước.
Miếu
đứng dưới chân Hòn Ngang, cuối Đồng Lớn. Bên cạnh có một bụi tre sum sê và
trước mặt một con mương gọi là Mương Hai chạy quanh co từ thôn Đảnh Thạnh vào
Đồng Lớn.
Miếu
là một tiểu đình, mái ngói cột săn, từ điện thông phong, đứng che một tảng đá
vuông vức, mỗi chiều trên một sải, nằm giữa một đám đá lởm chởm.
Trong
miếu không có bàn thờ. Từ khí từ vật là một bàn cờ bằng đá có đủ bộ con cờ cũng
bằng đá, một đôi giày đá và một bộ cối chày đá.
Truyền
rằng tảng đá vuông kia là tượng của Thái Tử.
Hỏi
Thái Tử là ai thì người địa phương đáp rằng là con vua Tần. Vua Tần tức là vua
Chàm. Tên nhà vua là gì không ai biết. Hỏi vì sao lại lấy tảng đá làm tượng,
cũng không ai biết vì sao. Chỉ xưa thờ sao nay thờ vậy.
Miếu
đã trùng tu nhiều lớp. Truyền rằng rất linh thiêng. Trong vùng, mỗi lần có
người gặp chuyện oan ức nan giải, thường đem nhau đến miếu thề thốt. Thề xong
cầm chày đá giã vào cối, vừa giã vừa lặp lại lời thề. Nhiều khi rất linh ứng.
Vì vậy nhân dân địa phương rất kính sợ, không ai dám xâm phạm và ít người dám
đến gần.
ĐỀN THIÊN Y A NA
Ảnh: Huỳnh Nam |
Truyền
rằng bà Thiên Y A Na giáng trần tại đây, và hiển thánh tại núi Cù Lao. Cho nên
ở Cù Lao có tháp ở đây có đền..
Đền
lập đã lâu đời và đã trùng tu nhiều lớp.
Trong
đền có thần tượng bằng mít. Thời kháng chiến chông Pháp tượng bị hư, nhân dân
địa phương tạc lại một tượng bằng thạch cao, thay thế.
Ngôi
đền không mấy đẹp. Nhưng phong cảnh chung quanh thật thanh kỳ.
Phía
sau, núi cao đá dựng, cây cối vướng víu cùng khói mây.
Trước
mặt, đồng lúa xanh bát ngát, và nhà cửa ẩn hiện trong vườn chuối bờ tre.
Sau
núi có hang cọp. Truyền rằng xưa kia có một con cọp mun ẩn náu. Cọp tu nên rất
hiền, không bao giờ phạm sát.
Trước
đền có hai cây mã tiền, tức cây cổ chi sống lâu đời. Cội cao tàn cả. Dưới gốc
cây có mộ ông Tiều bà Tiều là cha mẹ nuôi của bà Thiên Y. [19]
Thời
thái bình, đền Thiên Y rất được du khách chú ý. Các tay phong nhã cũng thường
đem nhau đến ngâm vịnh. Ai nấy đều khen là cảnh nên mộng nên thơ và đều say với
cảnh:
Hương trầm thoảng vị gió đưa,
Mây trương cánh hạc nghìn xưa
chập chờn.
VĂN MIẾU
Thờ
đức Khổng Tử và tứ phối.
Ở
thôn Phú Lộc, quận Diên Khánh.
Xây
cất năm Gia Long thứ hai (1803). Trước kia ở phía trên nổng gò tục gọi Hòn Tháp
[20].
Sau bị lụt xói sông Cái lở vào tận chân miếu, nên phải dời miếu xuống hướng
Đông. Đó là vào năm Tự Đức thứ hai (1849).
Trước
kia Văn Miếu cũng không rộng lớn lắm. Đến thời Pháp thuộc, nhất là sau khi chữ
Hán cáo chung, việc tu bổ lơ là dần dần. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp
thì bị sập đổ nhiều nơi. Hiện nay miếu chỉ còn là một ngôi nhà ngói ba gian hai
chái, trung trung, và cũ kỹ.
Bên
cạnh miếu, dưới gốc một cây cổ thọ, có một bàn thờ xây gạch. Đó là bàn thờ Chúa
Sơn Lâm, tức là Cọp. Mỗi lần tế miếu, đều đem một tợ thịt heo ba sườn ra đặt
nơi bàn thờ. Truyền rằng: Lúc miếu còn ở phía Tây, cũng như khi miếu đã dời
sang Đông, hễ tế xong thì cọp đến tha thịt đi, cọp tỏ vẻ hiền lành như một con
gia súc. Lại có lắm đêm cọp về nằm ngủ nơi bàn thờ. Ngủ đã giấc rồi đi chớ
không bao giờ làm hại đến người hoặc súc vật.
Từ
ngày bỏ cúng tế theo cổ tục, cọp không về nữa.
Khi
xưa lựa thôn Phú Lộc để lập Văn Miếu, một là vì thôn ở bên nầy sông, đối diện
cùng tỉnh thành ở bên kia sông, cách mà không xa, việc đi lại tiện lợi. Hai là
vì thôn Phú Lộc là một thôn trù phú và có nhiều nhân vật có uy danh.
Trong
thôn, gần Văn Miếu, có Trường Văn và Trường Võ. Cạnh trường võ có lò đúc súng,
gọi là lò gang. Ở xóm Đông lại có lò làm giấy.
Nhờ
vậy mà thời phong kiến thịnh vượng, thôn Phú Lộc nổi danh nhất Diên Khánh. Và
con sông Cái được mang tên Phú Lộc vào sử sách, mặc dù sông chảy qua nhiều
thôn.
Cũng
nằm trong thôn Phú Lộc, miếu Hội Đồng và miếu Thành Hoàng.
MIẾU THÀNH HOÀNG
Miếu
cất trên ngọn đồi Sơn Lâm, ở phía Đông Bắc Văn Miếu. Dựng năm Thiệu Trị thứ năm
(1845).
Sơn
Lâm là một ngọn đồi bằng đá đứng sững giữa đồng bằng. Hình tròn đỉnh nhọn. Cây
cối sầm uất.
Bên
đồi có một ao nước rộng chừng một sào.
Bóng
núi ngã vào ao trông như ngòi bút lông chấm vào nghiên mực.
Do
đó người địa phương gọi đồi là hòn bút, gọi ao là dĩa nghiên. Tức là Bút Sơn và
Nghiên Trì.
Khi
quan Tỉnh chọn ngọn đồi để cất miếu Thành Hoàng, các nhân sĩ trong thôn không
bằng lòng, song phép quan không dám cãi. Đỉnh núi bị phá bằng. Cây cối bị đốn
trụi để lấy gỗ làm miếu. Hòn Sơn Lâm không còn giữ được quang cảnh thâm u của
nghìn xưa.
Truyền
rằng: Trước khi hòn Sơn Lâm chưa bị xâm phạm thì trong thôn có nhiều người học
hành phát đạt. Nhưng từ khi “ngọn bút bị tà” thì việc học lần lần bị sút kém và
văn phong văn khí không còn thịnh vượng như xưa.
MIẾU HỘI ĐỒNG
Nằm
phía Nam miếu Thành Hoàng.
Cất
năm Gia Long thứ mười lăm (1816) bằng tranh. Trùng tu năm Tự Đức thứ hai (1849)
lợp ngói.
Ở
Bình Định cũng có miếu Hội Đồng ở An Nhơn.
Nhưng
ở Bình Định thờ khác, Khánh Hòa thờ khác.
Bình
Định thờ Tam Giáo Đạo sư:
-
Ở giữa thờ Phật với tượng Tam Thế.
-
Phía tả thờ Tiên với tượng Tam Thanh.
-
Phía hữu thờ Thánh với tượng Tam Tòa [21].
Còn
ở Khánh Hòa lại thờ Thần: Dương thần và Âm thần. Có sáu bài vị:
-
Hội đồng Thượng đẳng Dương Thần,
-
Hội đồng Trung đẳng Dương Thần,
-
Hội đồng Hạ đẳng Dương Thần.
-
Hội đồng Thượng đẳng Âm Thần,
-
Hội đồng Trung đẳng Âm Thần,
-
Hội đồng Hạ đẳng Âm Thần.
Miếu
ở Bình Định đã bị thời gian làm đổ nát rồi tay người hủy hoại từ lâu. Còn miếu
ở Khánh Hòa gần đây đã biến thành trường.
Trước
miếu hiện còn cây cổ chi tức cây mã tiền, sống lâu đời, thân cao tàn cả. Những
gì của ngày xưa còn lại chỉ tìm thấy nơi gốc cổ thọ nầy.
TAM TÒA
Miếu ở phía Đông Miếu Hội Đồng. Không biết cất thời
nào vì Đại Nam Nhất Thống Chí không thấy chép. Có lẽ do địa phương đứng cất nên
không được sử sách ghi tên.
Ở
Bình Định cũng có đền Tam Tòa, gọi là Tam Tòa Sơn Thần Từ. Theo Đại Nam Nhất
Thống Chí thì đền nầy do người Chiêm Thành lập ra để tỏ lòng nhớ ơn Oai Minh
Vương con thứ tám vua Lý Thánh Tông, vì đã có công giúp vua Chiêm dẹp yên loạn
trong nước. Sau vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành đến cửa Thi Nại, lên đền
cầu đảo và phong làm “Tam Tòa Sơn chi thần”. Đền ở trên núi Phương Mai, tại
biển Quy Nhơn.
Nhưng
theo lời các bậc phụ lão địa phương thì đền Tam Tòa Phương Mai do người Việt
Nam lập để thờ chư vị thánh mẫu. Trên hết thờ:
-
Đệ Nhất Thiên Thai,
-
Đệ Nhị Thiên Đế,
-
Đệ Tam Thiên Vị.
Rồi
đến:
-
Tây Cung Vương Mẫu.
Tiếp
theo:
-
Thập nhị tiên nương, tục gọi 12 bà mụ,
-
Lục thập Bổn Mạng Tiên Bà.
Đó
là chỉ nghe truyền, chớ hiện thời đền không còn mảy may dấu tích, nên không
biết sách chép đúng hay lời trong thế gian đúng [22].
Còn
Tam Tòa ở Khánh Hòa thì gồm có ba ngôi:
-
Ngôi chính thờ bà Thiên Y A Na với mười bản sắc của vua nhà Nguyễn phong tặng.
-
Ngôi bên tả thờ thần Bạch Mã.
-
Ngôi bên hữu thờ thần Ngũ Hành.
Và
theo lời các vị phụ lão địa phương thì đền gọi là Tam Tòa bởi vì đền gồm có ba
ngôi vậy.
Đền
không lấy gì làm đồ sộ nguy nga, song trang nghiêm thanh tịnh. Du khách bước
chân vào đền tự nhiên cảm thấy bầu không khí linh thiêng huyền bí vây bọc chung
quanh. Dù kẻ khinh bạc đến đâu cũng không dám hỗn xược phá phách.
Nhờ
vậy nên trải nhiều cơn dâu bể, đền vẫn không bị hư hại bởi tay người.
MIẾU CÂY DẦU ĐÔI
Miếu
ở ấp Phật Tỉnh, thôn Phú Ân Nam, cạnh Quốc Lộ số 1 về phía Nam.
Miếu
thờ thần “Quan Đại Thánh”. Vì nằm dưới bóng Cây Dầu Đôi, nên người đời lấy tên
cây mà gọi miếu.
Cây
Dầu Đôi là một “cổ tích” của Khánh Hòa. Cây sống trên trăm năm. Một gốc hai
thân. Mỗi thân lớn đến ba ôm và cao cũng đến mười lăm hai mươi thước, đứng song
song như hai trụ kình thiên, trông thật hiên ngang ngạo nghễ.
Cây
Dầu Đôi chẳng những là tên cho miếu mà còn làm tên cả cho vùng. Người ở các nơi
bảo đến Phật Tỉnh thì có lắm người không biết là nơi nào chớ nói đến Cây Dầu
Đôi thì không một ai không biết.
Người
địa phương rất quý trọng Cây Dầu Đôi. Quý trọng vì tuổi tác vì lợi ích.
Chẳng
những quý trọng mà còn kính sợ e dè. Đó là vì cây đứng cạnh miếu, mà miếu lại
có tiếng rất linh.
Truyền
rằng: Thời Pháp thuộc, có một lúc cả vùng Cây Dầu Đôi bị bệnh dịch hạch, người
chết khá nhiều. Thần đạp đồng lên cho biết rằng có ba con quái thử to lớn đã
đem tai nạn đến gieo rắc trong vùng. Chúng ẩn trong hang dưới bụi duối sau
miếu. Thần ban cho ba đạo phù, bảo đem đốt ở nơi miệng hang, rồi đào miệng hang
cho rộng , lấy vôi bột đổ vào. Chung quanh hang lại bao lưới. Nếu quái vật chết
trong hang thì thôi, bằng chạy ra ngoài thì lấy vôi vãi lên mình và lấy gậy
đứng xa mà đánh. Người trong thôn làm theo và giết được ba con chuột cống lớn
tày bắp vế. Lại theo lời thần dạy, những nhà có người chết đều rải vôi, và
người sống phải tránh xa trong một thời gian. Nhờ vậy mà nạn dịch dứt. Người
trong thôn trước kia đã tin thần linh, từ ấy lại càng tin thêm.
Sau
rồi mới biết ba con chuột kia vốn của viện Pasteur nuôi để làm thí nghiệm về
thuốc trị dịch hạch. Ba con chuột bị sẩy. Nhân viên ở Viện chỉ tìm quanh quẩn
trong vùng Nha Trang, không ngờ chúng chạy lên đến Diên Khánh.
Ngoài
chuyện trừ bệnh dịch hạch rất khoa học, người địa phương mỗi lần có việc đến
cầu đảo, Thần đều ứng vào mộng hoặc vào đồng vào cơ.
Nhưng
lần lần lòng người tin khoa học hơn tin thần thánh, miếu Cây Dầu Đôi cũng lần
lần bớt linh thiêng. Tuy vậy người địa phương đối với miếu với thần vẫn còn
kính sợ, và hương khói vẫn còn đượm nồng.
MIẾU CÂY ME
Miếu
thuộc địa phận thôn Phú Ân Nam, cách miếu Cây Dầu Đôi chừng vài trăm thước, bên
cạnh đường Quốc Lộ số 1.
Thờ
Phấn Nhĩ Quỉ Vương Thần Nữ, nhưng vì nằm dưới gốc cây me cổ thọ nên gọi là Miếu
Cây Me.
Cây
Me nầy sống đã lâu đời lắm, lâu đời hơn cây Dầu Đôi nhiều. Gốc to đến mấy ôm và
ruột bộng. Tàn rộng, nhánh gân guốc khẳng khiu. Đây cũng là một món “đồ cổ” quý
giá.
Miếu
tựa cây me, cây me tựa miếu. Cây me nhờ miếu mà thiên hạ không giám xúc phạm.
Miếu nhờ cây me mà tiếng bay khắp Bắc Nam. Nói miếu Cây Me thì ai cũng biết,
chớ nói miếu thờ Bà Phấn Nhĩ Quỷ Vương thì không mấy người biết.
Miếu
Cây Me linh có tiếng. Đi ngang qua, kẻ ngồi xe ngựa, phải xuống xe ngựa, kẻ đi
bộ phải lấy nón cúi đầu.
Truyền
rằng: Tả Quân Lê Văn Duyệt đi ngang qua miếu, cờ biển võng lọng nghênh ngang.
Quân bẩm:
-
Miếu linh thiêng, cúi xin ngài xuống võng. Tả Quân bảo cứ đi. Hai tên khiêng
võng không dám cãi lệnh. Vừa tới ngang miếu thì bụng tự nhiên đau nhói ngã quỵ,
tay phải thả võng để ôm bụng... Tả Quân bị té xuống đất. Đứng dậy phủi áo,
cười:
-
Tôi đi có việc gấp. Chị làm rắc rối làm chi thế, chị Phấn?
Hai
người khiêng võng liền hết đau bụng. Tả Quân lên võng đi.
Câu
truyện lan truyền, thiên hạ đã sợ càng thêm sợ.
Lại
truyền rằng: Khi Khánh Hòa đã có xe kéo lên xuống Thành Diên Khánh và Nha Trang
thì có nhiều chuyện kỳ quái xảy ra. Những anh phu xe đi gần đến miếu thì cắm
đầu cắm cổ chạy chớ không dám ngó quanh. Một hôm một chiếc xe từ Thành về Nha
Trang. Trên xe không người. Nhưng sau khi qua khỏi miếu, chậm bước ngoảnh lại
thì thấy một mỹ nhân ngồi trên xe! Một hôm trời vừa chạng vạng, một chiếc xe
kéo một thanh niên từ Nha Trang lên Thành. Khi gần đến miếu thì có một thiếu nữ
xinh xắn xin cho đèo. Anh phu xe ham tiền, chàng thanh niên ham sắc, đều bằng
lòng. Đi dọc đường, chàng thanh niên không giữ lễ. Khi đến gần tới Thành thì
thiếu nữ biến mất, còn thanh niên thì bị hộc máu chết tươi. Anh phu xe hết hồn
đau liệt giường hàng tháng v.v... Do đó hễ trời sắp tối thì không mấy ai dám đi
ngang qua miếu. Rủi lỡ đường, mà thấy bóng đàn bà con gái thì lo chạy tránh.
Miếu
hiện còn, nhưng bớt linh.
ĐỀN SINH TRUNG
Đền
dựng trên núi Hà Ra, cạnh đầm Xương Huân về phía Tây Bắc, trong thành phố Nha
Trang.
Dựng
năm Đinh Mão (1807) triều Gia Long. Trùng tu năm Tự Đức thứ năm (1852).
Đền
thờ 350 công thần của nhà Nguyễn đã bị tử trận hay bị mệnh vong vì bệnh trong
lúc tranh hùng cùng nhà Tây Sơn. Phần đông là những người mất tại Khánh Hòa.
Tên
trước kia Tinh Trung sau đổi là Sinh Trung.
Tuy
là đền thờ công thần, nhưng quy mô không được rộng lớn. Cách thờ phượng ngó
cũng sơ sài, đối với đền miếu của đồng bào bình dân thật không hơn không kém.
Nhưng
phong cảnh rất mỹ quan [23].
Cạnh
đền có cây cao. Trước đền có sân rộng.
Dưới
chân núi, đầm Xương Huân láng lai và ăn thông ra sông Hà Ra, một nhánh của sông
Nha Trang chảy ra biển. Bên kia đầm, khu Xương Huân và Xóm Cồn, nhà tôn chen
nhà ngói. Và ngoài xa, ngó thẳng ra Bắc, núi nối liền núi, ngó xiên xiên xuống
Đông, biển nối liền trời. Màu ngói sắc cây, bóng mây hơi nước..., lớp ẩn lớp
hiện, nơi tỏ nơi mờ. Xa cũng như gần, một ngó đều thâu trọn vào mắt.
Ba
mặt Đông, Nam, Tây thành phố Nha Trang mở rộng tận chân non, mặt biển. Cửa nhà
chen chúc, đường rộn rịp xe chạy người đi. Những bồn hoa xinh xinh, những hàng cây
rậm rạp. Đứng trên nhìn xuống, khách giàu tưởng tượng không khỏi ngờ rằng mình
đương ngắm cảnh Hàng Châu tả trong vần thơ cổ: “Sơn ngoại thanh sơn lầu ngoại
lầu”, mà Trường Xuyên phỏng dịch.
Xanh dờn non tiếp liền non,
Ngoài lầu hoa lại những còn lầu hoa.
Cảnh
đã đẹp lại ở gần thành phố, cho nên khách phong lưu thường đến thưởng ngoạn.
Xúc
cảnh sanh tình, người làng thơ thường lưu lại được nhiều giai tác.
Được
nhiều người thuộc, có hai bài chữ Hán của cụ cử Nguyễn Tạo và nhà Nho Trần Khắc
Thành:
DU
SANH TRUNG TỪ NGẪU TÁC
Nhàn lai huề hữu thưởng xuân
dương,
Lộ đáo Sinh Trung miễn lực cường.
Oanh chuyển hoa khai cung thắng
khái,
Sơn triều thủy nhiễu nhập bình
chương.
Lâu đài ngoại vọng văn minh hóa,
Tướng sĩ trung lưu tánh tự hương.
Tứ diện thanh quang đô khả ái,
Danh lam thiên tạo xuất tầm
thường.
(Tr. K. Thành)
II
Mích thắng xuân du khách tứ đồng,
Lưỡng tương huề thủ thượng Sanh
Trung.
Hiến đồ nhập họa giang san sắc,
Sùng tự trường minh tướng sĩ
công.
Tiếp ngạn lâu đài ba diệm giã,
Cách thôn gia liễu ấm thanh
thông.
Danh đô huống thị phùng giai
tiết,
Vô hạn di tình thưởng thức trung.
(Nguyễn Tạo)
Gần
đây có mấy ông bạn yêu văn chương ở Bình Định và Quảng Ngãi vào Khánh Hòa, đến
viếng đền Sinh Trung. Nhân cao hứng diễn hai bài thơ trên ra quốc ngữ:
DỊCH
BÀI CỦA TRẦN TIÊN SINH
I
Mình dạo tìm xuân với bạn mình,
Sinh Trung lần bước bước thinh
thinh.
Oanh ca hoa nở câu nhàn hứng,
Nước điểm non tô nét phẩm bình.
Hương khói ngạt ngào danh tướng
sĩ,
Lâu đài thấp thoáng bóng văn
minh.
Vời trông bốn bức phong quang trải,
Cao vút danh lam cảnh hữu tình.
Nguyễn Hoài Văn
II
Tầm
phương mình với bạn mình,
Sinh
Trung thẳng bước thỏa tình đăng cao.
Oanh
hoa giúp hứng thêm hào,
Non
xanh nước biếc hiện vào bình chương.
Văn
minh giợn bóng phố phường,
Danh
thơm tướng sĩ mùi hương đậm đà.
Tranh
treo bốn bức yên hà,
Xa
vời thế tục một tòa danh lam.
Trần Thúc Lâm
DỊCH
BÀI CỦA NGUYỄN TIÊN SINH
I
Tìm xuân bước khách nhẹ thinh
thinh,
Viếng cảnh Sinh Trung bạn với
mình.
Màu sắc nước non in nét họa,
Công lao tướng sĩ tạc đền linh.
Lâu đài tiếp biển hoa lồng thắm,
Dừa liễu kề thôn bóng rợp xanh.
Trong chốn danh đô vầy thắng
cảnh,
Cảnh thêm giai tiết xiết bao
tình.
Hồ Thăng
II
Vui
xuân khách cũng đồng vui,
Sinh
trung dìu bạn lên chơi với mình.
Non
sông vẽ bức tranh tình,
Hồn
hương tướng sĩ đền linh ngạt ngào.
Biển
lồng hoa thắm lầu cao,
Cách
thôn dừa liễu dạt dào sóng xanh.
Danh
lam ẩn bóng thị thành,
Gặp
tuần giai tiết thỏa tình lãng du.
Nguyễn Đình Mẫn
ĐỀN QUÁ QUAN
Trong
sách vở thì chép là Quá Quan từ.
Nhưng
người địa phương gọi là Miếu.
Trong
số từ miếu còn sót lại đến thời Pháp thuộc, đền Quá Quan là ngôi đền cổ nhất.
Đền lập từ thời Hậu Lê, hoặc trong niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740), hoặc trong
niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786).
Đền
ở thôn Xuân Phong, quận Vĩnh Xương.
Cất
dưới chân ngọn đồi tục gọi Núi Đá Lố hay Hòn Lố.
Kiểu
thức cổ kính: Ba gian hai chái, mái ngói tường gạch, cây gỗ toàn danh mộc.
Phong
cảnh kỳ tú.
Hòn
Đá Lố, tuy nhỏ thấp, nhưng hình thù cổ quái. Đá mọc ngổn ngang và chồng chất
lên nhau, gồ ghề hốc hỉu. Nhiều cây cổ thọ, hoặc gầy guộc khúc khuỷu, hoặc bóng
cả thân cao, chen chúc trong đá, xấp xới quanh đền. Sắc đá màu cây trộn lẫn
cùng màu vôi sắc ngói, được thời gian “châm chước” thành một bức tranh màu sắc
dịu dàng nhịp nhàng. Sau lưng núi Đá Lố là núi Mặt Quỉ.
Gọi
như thế là vì sườn núi đá mọc lởm chởm. Nhiều hòn kỳ hình dị dạng. Đứng xa
trông vào thấy mắt miệng tai mũi, chỗ đen chỗ xám chỗ trắng chỗ xanh..., chỗ
lõm chỗ lồi, u nầng nham nhở, giống như mặt quỉ Dạ Xoa.
Sau
núi Mặt Quỉ, núi non trùng điệp.
Đền
ngó vào Nam. Trước mặt có bàu sen rộng lớn nằm trên cánh đồng ruộng mênh mông.
Xa xa hàng tre xanh bên bờ sông Cái, chạy từ Tây xuống Đông đoanh lộn quanh co
như một con thanh long uốn khúc.
Phía
Tây hòn Núi Chúa ở Đại Điền Trung nhìn xuống.
Phía
Đông, biển Nha Trang và vùng núi Cù Lao với mấy ngọn cổ tháp nhìn lên.
Nhìn
khắp bốn bên, mắt rộng lòng cũng rộng.
Đền
thờ bà Thiên Y A Na.
Trước
kia xuân thu nhị kỳ, các quan Tỉnh phải sang dâng lễ.
Sách
Đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng khi xưa cống sứ nước Chân Lạp đi ngang qua
đền, có vào bái yết.
Đó
là một sự kiện lịch sử đáng ghi. Nhưng tiếc rằng không biết việc xảy ra vào
thời đại nào. Tuy vậy cũng có thể đoán rằng sau khi chúa Nguyễn đã làm chủ lãnh
thổ của nước Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp.
Thời
bấy giờ con đường thiên lý chạy từ Nam chí Bắc, đến Khánh Hòa, phải đi ngang
qua đền Quá Quan. Nếu từ trong đi ra thì đến thành Diên Khánh không xuống Nha
Trang theo con đường Quốc Lộ số 1 hiện thời, mà qua sông Cái sang Phú Lộc, ra
Đại Điền Đông, Phú Cấp, Xuân Phong... Nếu ở ngoài đi vô thì đến Lương Sơn,
không qua đèo Rù Rỳ để vào Nha Trang như hiện thời, mà lại quày lên hướng Tây
Nam, qua đèo Tam Đảnh ở Đắc Lộc, đi xiên xiên vào Xuân Phong... Con đường Thiên
Lý ngày xưa chạy ngang qua trước đền Quá Quan để vào thành Diên Khánh. Đó là
con đường Liên Hương số 1 của tỉnh Khánh Hòa ngày nay.
Biết
rõ đường đi thì việc cống sứ vào bái yết đền Quá Quan không lấy gì làm lạ.
Nhưng
sách Đại Nam nói rằng “Nhân việc cống sứ vào bái yết mà gọi tên đền là Quá
Quan” thì chưa lấy làm ổn.
Theo
lời các vị phụ lão địa phương thì bà Thiên Y A Na, từ Núi Chúa xuống tháp Cù
Lao, hoặc từ tháp lên núi, đều đi ngang qua đền. Những lúc bà đi thì một luồng
hào quang sắc xanh, lớn như một cây lụa trải, bay giữa lừng trời. Đến đền thì
hạ xuống giây lâu rồi mới bay tiếp. Đền coi như một cửa quan Bà qua lại, nên
mệnh danh là Quá Quan.
Có
lẽ đúng như thế.
Đền
đã bị súng đại bác của quân Pháp phá hủy năm Bính Tuất (1946) thời kháng chiến.
Cây
cối trước kia bị phá một phần, ngày nay phá một phần nữa. Nhưng đá vẫn còn lỳ
gan với nắng mưa.
Hiện
nay tên “Quá Quan” trở thành một địa danh. Người phương xa qua lại, không ngờ
trước kia có đền.
ĐỀN AN LƯƠNG
Ở thôn An Lương, quận Vạn Ninh.
Lập
thời nào không rõ. Đây là một đền cũ nhất trong tỉnh Khánh Hòa. Các bậc phụ lão
đoán chừng đồng thời cùng đền Quá Quan, vào khoảng Lê Cảnh Hưng.
Đền
thờ Bà Thiên Y A Na, thần Bạch Mã, thần Thủy Hoàng và Thành Hoàng.
ĐỀN MÃ CẢNH
Ở tại đèo Cổ Mã cạnh đường Quốc Lộ số 1. [24]
Thờ
thần Chúa Vàng và Chúa Sắt. [25]
Xây
cất đời nào không rõ. Đã cũ và hư sập nhiều nơi. Nhưng hành khách ra vào đều tỏ
lòng sợ sệt, mặc dù không biết rõ Chúa Sắt Chúa Vàng là vị thần nào, của ta hay
của Chàm, và đã làm gì có lợi cho nhân dân mà được thờ phụng.
Phong
cảnh nơi đền, trên non dưới biển, trông rất hữu tình. Song phần thì sợ Chúa thờ
trong miếu, phần thì sợ Chúa ngoài sơn lâm, cho nên không mấy ai dám dừng chân
thưởng ngoạn. Tuy vậy vẫn có thơ đề:
Chúa Vàng Chúa Sắt là ai?
Một tòa cổ miếu trong ngoài quạnh
hiu!
Chim rừng chiu chít tiếng kêu,
Biển khơi hờ hững nước triều
xuống lên.
Đường đời rộn bước đua chen,
Đèo cao vực thẳm ghe phen hãi
hùng,
Gan vàng dạ sắt ai nung?
Nước non gánh nợ ai cùng chung
lo?
Hương lòng dẫu tắt còn tro,
Mong sao vàng sắt giữ cho vững
bền.
MIẾU LỖ LƯỜN
Miếu
ở tại Hòn Đỏ ngoài vịnh Vân Phong, thuộc hải phận Ninh Hòa.
Miếu
đã lâu đời do các ngư phủ làm lưới đăng thiết lập để thờ một vị nữ thần trên
đảo. Danh hiệu nữ thần là gì không ai biết.
Bên
miếu có một hang đá. Trong hang, vách có chỗ nổi lên hõm vào trông phảng phất
như cơ quan sanh sản của phái nữ. Người địa phương gọi trại là Lỗ Lườn.
Hang
do đó mà mệnh danh.
Miếu
vốn không tên riêng, nên cũng mượn tên hang mà gọi.
Truyền rằng: Thần miếu Lỗ Lườn rất linh.
Đến mùa làm cá, các ngư phủ phải sắm lễ vật ra đảo cúng tế. Nếu không thì chẳng
những đánh không được cá mà còn gặp phải tai nạn gớm ghê.
Thần
ăn thịt sống.
Xưa
kia tế vật là một đồng nam hay một đồng nữ. Các chủ lưới đăng phải thay phiên
nhau mà cung cấp. Người ta thường mua trẻ em của đồng bào thượng về tế thần.
Sau
lệ tế người bị cấm và thay bằng lễ tam sinh. Bò heo dê làm thịt sạch sẽ nhưng
để sống và nguyên con.
Tế
xong, người ta về hết. Phẩm vật để y tại chỗ. Sáng hôm sau đến xem thì chỉ còn
thấy những xương.
Việc
cúng tế hiện nay vẫn còn. Nhưng không còn tế người hoặc tam sinh như trước, mà
dùng đồ nấu nướng như mọi nơi.
Lễ
vật tuy thay đổi, song có một nghi tiết từ xưa đến nay phải thi hành nghiêm
chỉnh là: Cúng tế nơi miếu xong, vị chủ tế phải đến hang, trịnh trọng cầm khúc
chày gỗ để sẵn thọc vào Lỗ Lườn ba lần, rồi mới lễ tất.
Tục
nầy của người Chiêm Thành truyền lại.
Người
Chiêm Thành có một bộ lạc thờ thần Lingam (Dương vật) và thần Yoni (Âm vật).
Tượng thần hiện còn thấy đôi nơi. Tại Musée Chàm Đà Nẵng hiện còn hai tượng
lớn.
Lỗ
Lườn tức là Yoni Việt Nam hóa vậy.
Lỗ
Lườn còn gọi là Lỗ Đĩ Dàng.
Dàng
là tên một vị thần của Chàm. Một số người Thượng cũng dùng tiếng Dàng để gọi
thần linh.
Nhưng
không hiểu tại sao gọi là Đĩ. Ở Vạn Ninh, tại thôn Vinh Huề có một cái bàu gọi
là Lỗ Đĩ.
Bàu
nằm trong một cánh rừng, hình bầu dục, rộng chừng năm sào ta, sâu lút một cây
sào chận vịt. Cá, trạnh, ba ba, rùa... rất nhiều và rất lớn.
Tiếng
Đĩ ở bàu nầy và tiếng Đĩ ở miếu Lỗ Lườn có lẽ đồng nghĩa. Nhưng cổ nhân thủ
nghĩa như sao, chưa một ai giải thích được thỏa đáng.
Cách
đặt tên miếu và nghi thức hành lễ ở Lỗ Lườn là ngoại lệ. Toàn tỉnh Khánh Hòa,
trong đất liền cũng như ngoài biển khơi, không còn nơi thứ hai vậy. [26]
*
* *
Đền
miếu ở Khánh Hòa cũng như ở các tỉnh khác ở Trung Việt, từ ngày Pháp đặt nền đô
hộ trên lãnh thổ Việt Nam, đều lần lần bị triệt hạ hoặc bỏ hoang phế. Đến thời
chiến tranh, những ngôi còn sót, lại bị tàn phá một lần nữa. Nên nay không còn
được mấy. Và những di tích không được bảo tồn nầy, bị nắng mưa phũ phàng, e
không thể tồn tại được lâu lắm.
Những
đền miếu cổ, phần vật chất ngó không giá trị bao lăm, nhưng mặt tinh thần tưởng
rất quan trọng. Bởi trước hết là của ông cha để lại, lẽ nào con cháu nỡ xem
thường xem khinh. Sau nữa, những kiến trúc nầy không bị ảnh hưởng văn minh Âu
Mỹ. Nhìn vào, các nhà khảo cổ có thể tìm được ít nhiều dân tộc tính Việt Nam.
Cho
nên việc bảo tồn không phải không cần thiết vậy.
[1] Đã nói rõ ở mục Sông Nha Trang.
[2] Phương Đình Dư Địa Chí do Ngô
Mạnh Nghinh dịch, trang 161.
[3] Đại Nam Nhất Thống Chí do Nha
Văn Hóa xuất bản, trang 88, quyển 10 và 11.
[4] Thuần Phu tiên sinh người ở
Quảng Nam vào trú ngụ ở Nha Trang từ lúc bé và nhập tịch Khánh Hòa.
[5] Biển Nha Trang nhiều én, nên
khách làng thơ gọi là Yến Hải. Đồng Bò ở phía trong Phước Hải.
[6] Thơ của Định Phong họa vận thơ
Vịnh Nha Trang của Thuần Phu.
[7] 2 3 Đã tả rõ ở đoạn trước: Chương Địa
lý, mục Núi Non.
[8] Trà tỳ là tự thiêu.
[9] Xá lợi là những mảnh xương còn
sót lại.
[10] Thơ của Trương Duyệt.
[11] Xem sự
tích nơi Suối Tiên sau đây.
[12] Bà Tùng Trang cùng “đấng phu
quân” không ăn ở với nhau đã lâu, nhưng vẫn còn là vợ chồng. Đến lúc già hai
ông bà lại về ở Nha Trang chung một con đường, bà đầu trên, ông đầu dưới, mỗi
người một giang sơn độc lập, không mấy ai biết đó là cặp vợ chồng.
[13] Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh
Khánh Hòa.
[14] Đã nói rõ ở phần Lịch sử tỉnh
Khánh Hòa.
[15] Chuyện nầy do cụ đề Ngô Văn
Nhượng thuật lại.
[16] Câu chuyện quan án Nguyễn Đình
Văn sống với ma, cũng như câu chuyện các ông bát Phàn, cửu Khi, chánh ca Đựng
thấy ma, do ông bạn Thọ Nguyên, môn đệ thân tín cụ Đào Phan Duân kể cho nghe.
Ông bạn cho biết rằng chính ông bạn được nghe cụ Đào thuật lại. Chuyện có vẻ
Liêu Trai. Song cụ Đào là bậc túc nho tuổi cao đức trọng, lời nói của cụ không
thể nghi ngờ được.
[17] Vì bia mờ quá không đọc được nên chép theo lời truyền.
[18] Phong cảnh đã tả rõ ở phần “Địa
lý”, chương “Núi non”, mục “Núi Chúa”.
[19] Xem sự tích ở đoạn trước, mục
“Tháp Bà”.
[21] Có người lầm là Thánh Khổng Phu
Tử. Đức Khổng là Thánh nhân. Còn Thánh thờ ở miếu Hội Đồng là Thánh thần, có
quyền phép, hay phù hộ người mà cũng hay quở phạt.
[22] Vì thấy có chỗ khác nhau giữa
Khánh Hòa và Bình Định nên chép lại cho vui.
Theo các vị phụ lão tin Thánh thì bà Thiên Y đại
diện chư thánh trên thiên cung, coi ngó người thế gian từ Khánh Hòa ra Thừa
Thiên, còn từ Thừa Thiên ra đến Thanh Hóa thì thuộc phạm vi bà Liễu Hạnh Công
Chúa.
[23] Xem thêm phần “Địa lý” mục Núi
Sinh Trung ở trước.
[24] Xem “Đèo Cổ Mã” ở phần địa lý,
mục núi đèo.
[25] Ở Phú Yên tại núi Nhạn Tháp cũng
có đền thờ bà Chúa Sắt, được các vua chúa nhà Nguyễn phong tặng là “Thượng Đỉnh
Chúa Thiết Bà”. Thần thờ nơi đền Mã Cảnh không biết có phải vị thần thờ ở Phú
Yên chăng. Vì trong đền không còn bài vị nên không thể tra cứu được.
[26] Ở Lỗ Đoi tại Thác Nhét thuộc
quận Diên Khánh, khi ghe bè đi ngang qua chỉ lấy sào thọc vào mấy cái, chớ
không có cúng tế như ở Lỗ Lườn.
(Xem
chương Sông Ngòi ở phần II. Mục Sông Nha Trang về Thác Nhét - đã nói kỹ).