Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016

Những di tích việc bức hại giáo dân ở Quảng Trị từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX

* Mai Lĩnh
Bức phù điêu tại lăng Tử Đạo Trí Bưu

Một số thông tin về việc cấm đạo ở Việt Nam từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX:
- Ở Đàng Trong, 6 đời Chúa Nguyễn đã ban hành 8 sắc chỉ trong thời gian từ 1625 đến 1725.
- Ở Đàng Ngoài, 7 đời Chúa Trịnh đã ban hành 17 sắc chỉ trong thời gian từ 1629 đến 1773.
- Nhà Tây Sơn có 5 sắc chỉ cấm đạo do vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) ban hành 2 sắc chỉ và Cảnh Thịnh ban hàng 3 sắc chỉ. Đặc biệt, vua Quang Trung không ban hành một Sắc Chỉ nào. Quan Thái Phó Trần Quang Diệu là người chống lại việc cấm đạo. Ông chống đối lại việc bắt bỏ tù và đày đoạ các Giáo Sĩ và giáo dân. Vợ chồng Thái Phó (phu nhân là nữ tướng Bùi Thị Xuân) rất có cảm tình với các Giáo Sĩ Thừa Sai.

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

Đâu rồi những đồi sim?!

* Mai Lĩnh

Sim bên triền đập Trấm, tháng 6/2014
Với ý nghĩ tìm lại những nét đặc trưng về thiên nhiên, con người ở Quảng Trị đã ghi sâu vào ký ức tuổi thơ, hai đề tài toi dành nhiều thời gian suy nghĩ và tìm kiếm nhất là hình ảnh những đồi sim, nắng và gió Lào ở Quảng Trị.

Những “đồi sim” chứ không chỉ là hoa và trái sim. Và với thằng nhóc 6 tuổi như tôi hồi đó, chưa hề biết gì đến bài thơ của cụ Hữu Loan, chỉ thấy thích khi biết loại trái ngon, ngọt đầy ắp rổ của mấy bà ngồi bán dọc đường Phan Bội Châu vô chợ Đông Hà, lại có thể hái ăn thoải mái, không phải mua vì cây sim mọc hoang đầy trên đồi. Hồi đó, nhà tôi ở cái xóm nhỏ thuộc thôn đệ Nhị, cạnh đồng lúa làng Tây Trì. Nếu tính theo đường QL9 thì qua khỏi nhà thờ là “ngoại ô” rồi, con đường lên dốc và quẹo tay trái về hướng tây; bên trái là đồi đất chập chùng mọc đầy sim, bên phải là vùng đất thấp kéo dài ra bờ sông Hiếu. Đi lên, qua khỏi đường sắt là đã thấp thoáng những xóm người Thượng (cách gọi người dân tộc thiểu số hồi ấy).

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Lễ tảo mộ ở Đại An Khê, Hải Lăng.

* Mai Lĩnh

Nói tới tục tảo mộ, hay chạp mả, người ta thường liên tưởng đến câu 
Thanh minh trong tiết tháng Ba,
lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
trong truyện Thúy Kiều (Nguyễn Du). Nhưng đó là chuyện kể theo phong tục và bối cảnh Trung Hoa ngày xưa.
Người Việt, từ xưa đã có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, và thời tiết có những khác biệt theo vùng miền nên ngày tảo mộ, chạp mả được tiến hành vào những thời điểm khác nhau, nhất là vì cuộc sống thay đổi nhưng tựu trung vẫn nhằm hai mục đích chính là thăm viếng, sửa sang nơi an nghỉ của tiền nhân (người đã khuất) để tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ gia tiên; thứ hai, đó cũng là dịp để người trong gia tộc có dịp quần tụ trong điều kiện sống tản mác khắp nơi, quanh năm lo chuyện mưu sinh.

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016

Ngôi chùa có miếu thờ linga và yoni !

* Mai Lĩnh

Đó là chùa Đông Lâm ở làng Cu Hoan, xã Hải Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngôi chùa tọa lạc trong khu vườn rộng, có lẽ nằm trên vị trí một kiến trúc cổ xưa của người Chămpa trước khi hai châu Ô, Rí sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt từ cuộc hôn nhân của Chế Mân và công chúa Huyền Trân (năm 1306).

Qua nhiều thế kỷ với nhiều đổi thay, tang thương dâu bể; vùng đất này trải qua nhiều cuộc chiến, trong khu vườn chùa Đông Lâm chỉ còn sót lại dấu tích của một giếng cổ Chămpa, theo cách đào giếng xếp đá như vùng di tích giếng cổ ở Gio An (huyện Gio Linh, Quảng Trị). Theo lời nhà sư trụ trì hiện nay, người dân địa phương đã tìm thấy dưới đáy giếng hai vật thể điêu khắc đá mang hình tượng linga và yoni, người đã đưa lên đặt vào ngôi miếu nhỏ và tiếp tục nhang khói đến ngày nay như một hình thức thờ tự theo tín ngưỡng dân gian.

Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Dấu chân chúa Nguyễn bên bờ sông Thạch Hãn

* Mai Lĩnh - Nguyễn Hiếu

Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), tức là Chúa Tiên, là người tiên phong mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của chín đời Chúa Nguyễn, lập nên vương triều nhà Nguyễn.
Nguyễn Hoàng (sinh tại Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa) là con trai thứ hai của Nguyễn Kim (1468 - 1545) và bà Nguyễn Thị Mai (quê ở Hải Dương). Theo phả hệ họ Nguyễn ở Gia Miêu, ông là hậu duệ của Nguyễn Bặc.

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

Quảng Trị - đi nhớ về thương

Lời ngỏ
Ảnh: Nos HP

Tôi lớn lên bên dòng sông Thạch Hãn, hồn nhiên, vô tư như bao đứa trẻ của vùng đất quanh năm “nắng cháy, mưa dầm”, với hai mùa gió Lào khô rát và gió bấc rét thấu xương. Tôi đã sống trọn mười lăm năm thời niên thiếu ở Quảng Trị. Đó là giai đoạn cho một đứa trẻ quan sát, cảm nhận và khai phóng tư duy để hình thành nhân cách. 
Và, cũng quá đủ để suốt mấy chục năm dài sau đó, lang bạt nhiều nơi nhưng lúc nào tôi cũng đau đáu nhớ về vùng đất ấy với bao hoài niệm về một cộng đồng thân thương, gắn bó. Cộng đồng ấy gồm những người bạn láng giềng, bạn học, thầy cô giáo, anh em cùng sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo và tổ chức Hồng Thập Tự... và cả những người nông dân không quen biết, tôi gặp được trong những chuyến đi về vùng thôn dã... Tôi học được rất nhiều điều từ cộng đồng ấy. Tôi mang ơn tất cả mọi người.

Bước qua tuổi 65, tôi chợt nhận ra mình đang mang một món nợ; món nợ nghĩa tình của đất và người Quảng Trị. Thế là tôi xách máy ảnh lên đường, mong tìm lại những “hình ảnh trong ký ức tuổi thơ” và thực hiện tập sách ảnh này như một lời cám ơn.

Dùng hình ảnh hôm nay để thể hiện tình cảm và kể lại những cảm nhận về một vùng đất đầy ắp kỷ niệm trong ký ức tuổi thơ đã qua đi hơn nửa thế kỷ quả là một việc khó. Rất khó! Nhưng biết làm sao hơn khi “món nợ tự đòi” cứ hàng ngày thôi thúc.

Vậy nên, mong mọi người thông cảm cho cái tâm nguyện vừa “tham lam” vừa “liều lĩnh” mà lượng thứ. Xin mời anh, chị, cùng tôi bước về vùng xưa cũ, chia sẻ tình quê.



Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Nhà thờ Núi giữa thành phố biển

  • Phạm Đình Quát
Toạ lạc trên một ngọn đồi nhỏ cạnh ngã sáu trung tâm thành phố Nha Trang là một kiến trúc hoành tráng, sừng sững trên nền trời xanh ngát, quanh năm lộng gió đại dương, luôn thu hút sự chú ý của những người từng đặt chân đến miền đất thuỳ dương cát trắng dịu hiền này.

Theo thi sĩ Quách Tấn viết trong Xứ Trầm Hương thì ngọn đồi có ngôi thánh đường thường gọi là Nhà thờ Núi hay Nhà thờ Đá, vốn xưa là Hòn Một - tên chữ là Hoa Sơn - được ví như con Rùa Vàng (Kim Quy) trong thế phong thuỷ Tứ thuỷ triều quy, tứ thú tụ của cuộc đất xứ Nha Trang. Phía nam Hòn Một là rừng mai vàng hoang dã; loài mai biển hiện chỉ còn rất ít ở vùng Thuỷ Triều, thuộc bán đảo Cam Ranh. Để mở rộng đô thị, người Pháp đã xẻ núi làm đôi mở đường Phước Hải (nay là đường Nguyễn Trãi). Nửa phía đông,  đến nay dấu tích núi Một vẫn còn dù người ta đã đục phá, lấy đất xây nhà ở. Nửa phía tây,  được coi là phần thân của Rùa Vàng cũng bị đánh mìn san phẳng mặt bằng để xây dựng nhà thờ.

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Hòn Lao: Kinh doanh phá hủy cảnh quan biển đảo

  • Mai Lĩnh

Cầm tấm vé đi đảo, tôi hỏi, khách được hưởng những dịch vụ nào trong
khoản vé này (không trả thêm tiền); cô bán vé kể một loạt mấy mục,
trong đó có "tắm biển". Hóa ra thế này đây!
Hòn Lao là một cù lao nhỏ (khoảng 25 hecta) nằm trong đầm Nha Phu quanh năm biển lặng sóng êm, cách thành phố Nha Trang 15km (về phía Bắc). Hòn Lao được gọi là “Đảo Khỉ” vì trên đảo có nhiều khỉ (bị bỏ rơi sau thời bao cấp, trước đó người ta đem ra nuôi để bán cho nước “bạn”); nhiều năm qua được công ty Du lịch Long Phú (Tập đoàn Khatoco) đầu tư, kinh doanh. Đảo Khỉ là một trong những điểm tham quan gắn liền với biển, đảo, núi rừng... ở Khánh Hòa mà giới kinh doanh du lịch thường gọi là “du lịch sinh thái” hoặc “du lịch biển đảo”.

Không thể phủ nhận những nỗ lực đầu tư của công ty Long Phú đã biến một cù lao nhỏ thành điểm tham quan hấp dẫn và an toàn; nhưng cũng không thể tán thành việc tàn phá cảnh quan, môi trường thiên nhiên trên đầm Nha Phu, biến Hòn Lao thành một công viên, nhà hàng... như trên đất liền. Định hướng đầu tư bị chệch hướng có thể vẫn đem về lợi nhuận cho doanh nghiệp, nhưng kinh doanh du lịch đâu chỉ vì tiền mà còn phải tính đến môi trường và hình ảnh địa phương về một vùng biển xinh đẹp được thiên nhiên ưu đãi. Thật đáng tiếc!

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Nguyễn Du - Tiếng lòng thiên thu

  • Tâm Nhiên


Thơ và thiền là đôi cánh đại bàng tung bay trên bầu trời Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn xưa cho đến ngày nay. Từ đỉnh ngàn cao tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn, thiền nghiêng cánh xuống bay lượn khắp các tòng lâm, thiền viện, am cốc và thơ cũng tung lướt một cách ngoạn mục từ bến sông Hằng, nơi Đức Phật đã khơi nguồn cảm hứng Chân Thiện Mỹ.

Thi sĩ và thiền sư cùng gặp nhau giữa con đường phong quang sáng tạo, thể hiện qua đạo và thơ, nhưng thi sĩ là ai, thiền sư là kẻ nào vậy ? Phải chăng đó là những tâm hồn đốn ngộ lẽ đời sinh tử, đọa đày, thống khổ, điêu linh, đã vượt qua chính mình để cất lên tiếng hát bất sinh bất diệt, thiên thu vĩnh cửu như Chứng Đạo Ca của thiền sư Huyền Giác và Truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du ? Truyện Kiều không ai mà không biết, không ai mà không thuộc lòng một vài câu, một vài đoạn trong toàn bộ tập trường ca, dài hơn ba nghìn câu thơ lục bát của bậc đại thi hào dân tộc.

Túng quá hóa liều

  • Hoàng Đằng

Đầu mùa đông Quảng Trị, trời mưa dầm dề, khi nặng hạt, khi lưa thưa. Rét lạnh đã về.

Trong một túp lều, một thiếu phụ đứng úp mặt vào tường, đầu quấn khăn tang trắng còn mới. Bên cạnh, cách bức màn vải mỏng màu xanh đã ố vàng, trên chiếc bàn trông ọp ẹp, hai cây đèn dầu thắp sáng leo lét, cái sáng cũng khó nhận ra vì bị phủ che bởi cái sáng ban ngày. Giữa hai ngọn đèn ấy là cái lư hương bằng sành hình ống, ở đó, trồi lên khỏi đám nhang tàn chen nhau chật ních, một que nhang đang nghi ngút cháy; những cuộn khói tí hon vòng vèo tiếp nhau bốc lên cao.