- Hoàng Đằng
Như thường lệ, ăn tối xong, ông Kha, bà Hiền lên phòng khách xem
TV. Ông Kha 65 tuổi, bà Hiền cũng gần 60. Hai ông bà xưng hô với nhau “anh, em”
ngọt xớt, chứ không như ở trong khu phố này, đa số dân sống bằng nghề lao động
chân tay, do vất vả, mệt nhọc, sử dụng ngôn ngữ cộc lốc - thậm chí cộc cằn. Những
cặp vợ chồng ngang tuổi ấy hay nhiều hơn thường gọi nhau “ông mụ”; những cặp
trẻ hơn thường gọi nhau “mi, tau”.
Ông Kha là giáo viên hưu trí; bà Hiền làm nghề buôn bán, có một sạp
hàng quần áo buôn bán rất chạy trên chợ.
Ông Kha ngồi sát bên bà Hiền, ông tình tứ gác cẳng chân lên bắp vế
bà. QTV (Truyền Hình Quảng Trị) phát hết chương trình Thời Sự Quốc Tế, đến
chương trình Thông Tin Kinh Tế Xã Hội, trong đó có mục “Nhắn Tìm Mẹ” của một phụ
nữ trung niên:
“Tôi tên là Mân. Nghe kể lại tháng 01/1973, một bà mẹ trẻ tuổi
sinh tôi ra tại bệnh viện Tam Kỳ. Vì hoàn cảnh, tôi được đem cho một người khác
nuôi. Nay ba mẹ nuôi tôi muốn tôi tìm lại mẹ đẻ; vậy tôi đăng thông cáo này lên
Truyền Hình để tìm mẹ …”
Nghe đến đó, bà Hiền lạnh xương sống, đổi sắc mặt, bà đứng dậy,
nói với ông Kha:
- Em hơi mệt, anh cứ tiếp tục xem, em đi nằm sớm.
Ông Kha kéo bà Hiền sát vào mình, sờ đầu bà xem có nóng sốt gì
không, thấy bình thường, ông áp môi vào má bà, hôn trùn trụt bên này rồi bên
khác, nói yêu:
- Em vô giường trước, khi nào xem xong bản tin 19 giờ của VTV1,
anh vô sau; gắng chờ anh một chút!
Bà Hiền ngã người xuống giường. Cái hình con bé thông báo tìm mẹ
giống bà ngày xưa quá, nhất là cái miệng cười; hai môi đỏ nở ra để lộ hàm răng
trắng đều như một đóa hoa. Những kỷ niệm thời thiếu nữ hiện về trong tâm trí bà
như một cuốn phim quay chầm chậm với đầy đủ chi tiết nóng sốt, hồi hộp.
Cuối năm 1971, do chiến sự quá ác liệt, dân làng Hiền dồn về một
khu ven tỉnh lỵ, vất bỏ ruộng vườn là phương tiện mưu sinh chủ yếu từ bao đời
nay. Tại khu dồn dân, mỗi người phải lo kiếm một việc để sinh sống. Hiền lúc đó
mới 15 tuổi, dáng dong dỏng cao, đôi má hồng hồng, ngực đã nhú căng, tóc thề xả
ngang lưng – kiểu tóc của nữ sinh trung học. Hiền đã học xong lớp 7, nhưng đành
phải bỏ học.
Đầu năm 1972, một ông bác họ lên tỉnh làm công chức ở tòa hành
chánh đã lâu, quen biết rộng, giới thiệu Hiền tới phụ bán hàng cho một hiệu
buôn.
Hiệu buôn này có cơ sở buôn bán riêng gần khu vực chợ, còn nhà ở nằm
ở một khu vực yên tĩnh. Công việc của Hiền ban ngày đứng bán hàng ở cơ sở buôn,
phụ với bà chủ, ban đêm về dọn dẹp việc nhà. Hiền phải ăn ở tại nhà chủ, ít khi
về nhà cha mẹ dù đường đi cũng gần thôi.
Ông bà chủ có cậu con trai đang học bậc đệ nhị cấp ở một trường
trung học tại tỉnh lỵ. Ban ngày, cậu học ở trường, buổi tối, cậu thường vắng
nhà, cậu nói với bố mẹ cậu đi học nhóm với bạn bè; mười đêm hết chín, cậu về
khuya.
Chỗ ngủ của Hiền là chiếc giường gỗ rộng một mét kê dưới cầu thang
gần cửa. Nhà có cửa ra vào rộng ở phòng khách, nhưng cửa này đóng kín, khóa chặt
khi ông bà chủ đã lên phòng ngủ trên lầu. Cậu con trai mỗi lần về trong đêm đều
gõ cửa sát cầu thang và Hiền có trách nhiệm dậy mở.
Đã mấy hôm rồi, Hiền cảm thấy người nóng lên, rạo rực, dục tình
thèm khát. Thông thường, Hiền nằm xuống ngủ liền. Cậu ấy về gõ cửa mạnh và lâu,
Hiền mới dậy ra mở trong tình trạng ngái ngủ. Dạo này, Hiền cứ trằn trọc, mới
nghe tiếng “cốc cốc” nhẹ, dậy ngay. Hiền ngóng chờ một chỉ dấu gì đó từ cậu con
trai; Hiền thất vọng; đã ba bốn đêm rồi, hễ cửa mở ra, cậu lẻn vào, vội vàng
lên phòng riêng trên lầu ngay. Hiền thắc mắc con trai con triếc gì mà vô cảm,
mà tỉnh bơ đến thế.
Rồi một đêm, tiếng gà gáy đầu đã vang lên đó đây; cậu mới vô cửa,
Hiền cầm tay cậu, đưa nhẹ lên ngực mình, đẩy qua đẩy về, rồi kéo mạnh cậu tới
giường. Cậu cứ để Hiền hành động tự nhiên; cậu bắt đầu “nổi máu”, nằm xuống
cùng Hiền trên chiếc giường hơi chật với hai người; trong màn tối, Hiền nghe rõ
nhịp thở tăng tốc …
Cậu mệt nhoài, ngủ thiếp, còn Hiền, sau vài giây phút phấn chấn, bắt
đầu lo sợ vẩn vơ; Hiền không ngủ được, chong hai mắt và khi nghe gà gáy điểm
canh lại, Hiền thức cậu dậy, bước nhẹ cầu thang, lên phòng ngủ riêng. Từ đó, mỗi
lần cậu về khuya, cậu đều ghé nằm chung với Hiền và chỉ lên phòng riêng khi ân
ái xong. Nhiều lúc, Hiền không ưa, cậu cũng “thầy đây” cho được.
Hiền tắt kinh. Những cảm giác lạ đến với Hiền: thèm đồ chua, trong
bữa ăn ngửi mùi cá, nôn ọe … Hiền vừa thẹn vừa sợ, giữ kín một thời gian. Những
triệu chứng của thai nghén lộ rõ dần, Hiền về nhà, bạo gan tâm tình với mẹ. Mẹ
Hiền chỉ thở ra, không có ý kiến gì và cũng không tỏ vẻ trách móc rồi rầy la
như Hiện cứ nghĩ.
Dạo này, Hiền đứng bán hàng, thường buồn ngủ, lơ dễnh với công việc;
khách vào, gọi hàng mua, hình như không nghe, Hiền cứ đứng sửng. Bà chủ nhắc nhở
nhiều lần, Hiền vẫn “chứng nào tật ấy”. Qua bực, bà chủ lên tiếng to, mắng nhiếc.
Vin cớ, Hiền bỏ về nhà cha mẹ.
Bụng to dần; bố mẹ Hiền bàn bạc, sắp xếp gởi Hiền vào với ông chú
định cư ở Tam Kỳ .
Và đầu năm 1973, Hiền sinh một bé gái tại bệnh viện Tam Kỳ. Gia
đình Hiền kín đáo sắp xếp để sau khi bé mới chào đời cho ngay một cặp vợ chồng
hiếm muộn tại địa phương.
Hiền ở lại bệnh viện thuốc men; sức khỏe phục hồi, Hiền về lại nhà
ông chú nghỉ dưỡng. Ông chú xin cho Hiền một chân thư ký ở một công sở. Tuổi mới
18, ăn diện và trang điểm vào, Hiền trông rất dễ thương, lôi cuốn mắt nhìn của
biết bao chàng trai Quảng Nam. Lại thêm, giọng nói dịu dàng, thái độ thân thiện,
kỹ năng làm việc tốt, Hiền rất được lòng của tất cả cán bộ và nhân viên trong sở.
Nhiều nam đồng nghiệp độc thân tìm cách tiếp cận, tán tỉnh, nhưng chưa ai lọt
vô mắt xanh của cô.
Từ tháng 3 năm 1972, chiến sự dữ dội khắp cả tỉnh Quảng Trị. Phần
lớn dân di tản về phía nam, tạm cư tại các trại tỵ nạn ở Đà Nẵng. Bố mẹ Hiền
vào ở trại Hòa Khánh.
Mùa thu năm 1973, Hiền từ Tam Kỳ về Hòa Khánh thăm gia đình. Hiền
– một cô gái cao mảnh khảnh, trong bộ trang phục áo dài màu xanh lơ điểm những
hình thêu mềm mại tinh xảo – xuất hiện gần bên cái sạp ván ép – chỗ ăn ở của bố
mẹ – kê chiếm 1/6 của cái săm (chambre) lính Mỹ để lại, mọi người thuộc những
gia đình khác trong săm nhìn cô, trầm trồ thầm khen cô vừa đẹp, vừa sang.
Kha, một giáo viên gốc Gio Linh, ở cùng săm, mới 24 tuổi, giả bộ
đi lui đi tới trong săm như thử đang tìm một cái gì đó để được liếc nhìn Hiền
nhiều lần; Hiền không để ý gì đến Kha, cô chỉ chuyện trò với bố mẹ; bao nhiêu
chuyện từ ngày cô vô Tam Kỳ đến giờ cứ nối đuôi nhau: chuyện ở quê nhà, chuyện
trên đường di tản, chuyện tạm cư …
Hiền trở lại Tam Kỳ. Kha làm thân với bố mẹ Hiền. Kha viết thư làm
quen, rồi tỏ tình với Hiền. Được sự tác động tích cực từ bố mẹ, Hiền đáp ứng.
Hai người thư qua thư lại, vẽ nên hạnh phúc gia đình tưởng tượng bằng nét chữ,
lời văn
Hè năm 1975, đất nước hòa bình, dân Quảng Trị hồi cư. Và lễ cưới của
Kha và Hiền được tổ chức ở quê nhà. Lấy chồng, Hiền lại lo lắng về một chuyện tế
nhị mà chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay. Hiền từng nghe: nhiều tân lang
trong đêm tân hôn tìm cách để khám phá xem tân nương còn trinh nguyên hay
không; cô đọc truyện Kiều và biết mưu dùng “nước vỏ lựu, máu mào gà” để đánh lừa
mấy gã đàn ông chỉ thích làm “tiền khai khẩn”. Tuy vậy, cô nghĩ ra cách riêng của
mình; đêm tân hôn, cô giả bộ e thẹn, nghiêng phía này rồi ngoảnh phía khác, kẹp
cứng hai chân lại; Kha nôn nóng, không thể chờ đợi …
Và khi xong “việc”, Kha nằm xuôi lơ. Hiền thầm mỉm cười: “Thiên hạ
cứ dọa mình, có chi đâu! Đàn ông “xấu máu” trước đàn bà, “mần” được là thôi,
nào mấy ai đủ sức và đủ thời giờ tẳn mẳn tỉ mỉ như người ta đồn thổi đâu! Và lũ
đàn ông đừng láo, có khi mô đàn bà bầy choa đòi xem “đồ nghề” của các ngươi còn
nguyên hộp mô! Đừng bất công với phụ nữ nghen!”.
Kha tiếp tục đi dạy, còn Hiền không còn được “lưu dung” làm thư
ký. Hiền cùng với dân làng làm nông nghiệp, vô đội, vô đoàn, khai hoang phục
hóa. Ít lâu sau, đội đoàn lên hợp tác xã; mỗi làng lớn thành một hợp tác xã,
còn đối với làng nhỏ thì nhiều làng thành một hợp tác xã. Làm thì có mà ăn thì
không; “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải có con người xã hội chủ
nghĩa”; chưa có con người loại đó, thành thử sự nghiệp làm ăn hợp tác hóa lâm bế
tắc. Năng suất lao động kém, quản lý tập thể tồi … Của cải làm ra ít, đời sống đại bộ phận nông dân cơ cực.
Dầm mưa dãi nắng, lăn lộn với bùn nước, bụi bặm, Hiền tàn phai dần
nhan sắc và vẻ quý phái. Việc sinh con và nuôi con làm cho cơ thể xệch xạc, gầy
guộc, da dẻ đen điu, tái mét. Không trụ nỗi với ruộng đồng, Hiền lên thị xã, đến
chợ, mở một quầy bán quần áo.
Cuộc sống của Kha và Hiền khá lên từ đó đến giờ, hai vợ chồng tậu
được nhà ở thị xã. Ông bà ngày xưa nói không sai. “Phi thương bất phú” mà!
Lấy Kha, Hiền sinh được một trai năm 1977 và một gái năm 1980.
Hiện tại, Kha đã về hưu được 5 năm, đứa con trai tốt nghiệp kiến
trúc sư TP. Hồ Chí Minh đã có vợ con, làm việc và định cư ở Sài Gòn, đứa con
gái tốt nghiệp đại học sư phạm Huế đã có chồng con dạy trung học phổ thông ở Huế.
Ở nhà hiện chỉ còn hai ông bà. Trong cảnh già, không còn việc gì chi phối, người
này luôn nghĩ về người khác. Nhà cửa trống vắng, người này coi người khác như
gia tài tinh thần và tình cảm của riêng mình.
Bé gái Mân do Hiền sinh ra năm xưa được một gia đình khá giả nuôi
nấng, dạy dỗ đàng hoàng tử tế. Mùa hè 1975, bé Mân di tản qua Mỹ, bố nuôi Mân
là trung tá hải quân của quân đội cộng hòa. Qua bên ấy, bé Mân đi học tiểu học,
trung học rồi đại học.
Bây giờ, Mân làm bác sĩ, có chồng và 3 con.
Khi Mân đủ 18 tuổi, một buổi tối, gia đình sum họp, không biết sao
mẹ nuôi Mân kể lại chuyện đời cho Mân nghe. Hình như dù rất thương yêu Mân, bà
nghĩ rằng không cho Mân biết nguồn cội rõ ràng là một điều thiếu sót. Nếu một
mai chết đi, ông bà sẽ cảm thấy chưa tròn trách nhiệm.
Năm nay, Mân về quê thăm. Mân tới đài Truyền Hình tỉnh đăng thông báo
tìm mẹ trong vòng một tháng. Thông báo chỉ đọc một hai lần thì, dưới mắt khán
thính giả, là chuyện bình thường, đằng này, đọc quá nhiều lần, người nghe ai
cũng thương cảm; xướng ngôn viên truyền hình đọc giùm thông báo tìm mẹ mà như
tiếng khóc trẻ thơ lạc mẹ giữa chợ đông
người.
Tối nào, bà Hiền cũng nghe thông báo ấy. Bà im lặng, ruột quặn thắt;
biết chắc con mình đẻ ra rồi đó, nhưng lên tiếng với con quá khó. Ông Kha biết
được, con trai bà ở Sài Gòn và con gái bà ở Huế biết được sẽ tỏ thái độ như thế
nào! Có thể họ sẽ bao dung và biết đâu gia đình sẽ thêm một thành viên mới. Tuy
nhiên, biết đâu hạnh phúc hiện tại sẽ đổ vỡ. Kinh nghiệm là trong xóm đây; ông
kia thời thanh niên do bồng bột đã “hoang” với một thiếu nữ đồng trang có bầu;
do hai gia đình không “môn đăng hộ đối”, việc hôn nhân không tiến hành được;
ông ấy buồn vô Nam sống và lấy vợ trong đó. Thời gian sau, vợ chồng đem nhau về
thăm quê, bà vợ phát hiện ông chồng đã từng có con. Trở lại miền Nam, bà vợ cho
rằng khi lấy bà, ông không “khai báo thật thà”, lừa phỉnh bà; ngày nào bà cũng
xỉ mắng ông, thậm chí nhiều lúc đuổi ông ra khỏi nhà, bà chấp nhận sống ly thân
nuôi con một mình. Lâu ngày chịu không nổi, ông chồng phải về quê sống một mình
bên bà con thân thuộc.
Càng nghĩ, bà Hiền càng âm thầm đau khổ. Câu hỏi: “Mần răng đây
hè?” cứ lởn vởn trong tâm trí bà.
(Đông Hà, 16/10/2014)