Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

Hàn San Tự và Hàn San Tử

  • Chu Vương Miện

Ảnh: Mai Lĩnh
Nhiều năm cho tới bây giờ vẫn còn có nhiều người lẫn lộn Hàn San Tự (Chùa Hàn San) và Hàn San Tử (cao tăng thi nhân Hàn San). Ngay Lê Nguyễn Lưu - người soạn ra cuốn Đường Thi dầy trên 2000 trang cũng vẫn bị nhầm lẫn và nhiều người dịch thơ Đường vô ý một chút là nhầm ngay. Thậm chí, chữ “hàn san tự” vẫn có người dịch là “chùa trên núi lạnh”! Bởi từ khi vị cao tăng thi nhân Hàn San viên tịch, vì ngưỡng mộ tài đức của ngài nên dân chúng lấy tên ngài đặt tên cho một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô thành phố Tô Châu.
Chúng tôi trích dẫn một ít tài liệu trong các sách có liên quan đến Hàn San:
1/ Hàn San Tử là thi nhân thời danh thời Trung Đường và cũng là vị tăng lữ sống vào thời Trinh Quan, thường được gọi là Quốc Thanh tam ẩn. Ngài cư trú ở núi Hàn Nhai, huyện Đường Hưng, Thiên Thai (nay là Thiên Thai Chiết Giang) thường đến chùa Quốc Thanh thăm bạn là thi tăng Thập Đắc.
(Trích Từ điển Văn học Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan, trang 135).
2/ Hàn San là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Cô Tô; (Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự).
3/ Hàn San là hiệu của vị cao tăng đời nhà Đường ẩn tu trong một hang núi có tuyết lạnh (tức là ngài Văn Thù bồ tát).
(Trích Thành ngữ điển tích Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh, trang 402, cuốn 1).
4/ Hàn Sơn hay Hàn San là tên ngôi chùa ở Cô Tô phía tây Phong Kiều, huyện Ngô. Chùa có tên ấy vì đời Đường là nơi cư trú của hai nhà sư Hàn San và Thập Đắc. Chùa thấp nhỏ bình thường, sau vườn có gác chuông, gần đây trong chùa dựng tấm bia khắc bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của thi nhân Trương Kế do Khang Hữu Vi đời Thanh viết, chữ to ba bốn tấc.
(Trích Đường Thi tuyển dịch của Lê Nguyên Lưu, trang 1679).
5/Hàn San Tự , theo tương truyền khi chùa mới lập có hai vị cao tăng mồ côi tu tại chùa tên là Hàn San và Thập Đắc , hai người rất thương yêu nhau như anh em ruột và dân chúng lấy tên một trong hai vị sư này để đặt tên ngôi chùa có từ thời vua Đường Huyền Tôn trước năm 756 rất xa .
(Ký sự du lịch Trung Quốc của Trịnh Hảo Tâm, trang 348).
Thực tế chùa Hàn San được xây từ năm 502, tên cũ là Diệu Lợi Phổ Minh tháp viện, đến thời nhà Đường được gọi là Hàn San Tự. Đến thi Bắc Tống Thái Bình Hưng Quốc (976-984), Tiết Độ sứ Trung Ngôn Tôn Thừa Hữu xây Phật tháp bẩy tầng. Thời vua Tống Nhân Tôn (1056-1063) chùa được trùng tu đẹp hơn. Đến triều nhà Thanh, đời vua Hàm Phong năm thứ 10 (1860), chùa bị hư hại, điêu tàn vì chiến tranh trong một thời gian khá dài mãi, đến năm 1910 mới được tu sửa lại, to đẹp hơn xưa và có tên Hàn San Tự trở lại.
Giang Thôn kiều, bên hông chùa Hàn San. Ảnh: Mai Lĩnh
Hàn San Tự cách trung tâm Tô Châu chừng 5 cây số, ở ngay Cô Tô - kinh đô cũ của nước Ngô (Phù Sai), tọa lạc bên con kinh đào hẹp và có một cây cầu đá dốc cao bắc ngang trước chùa. Cây cầu này qua xóm nhà bên kia con kinh có tên là Giang Thôn nên gọi là Giang Thôn Kiều. Không phải là Phong Kiều đã nói đến trong bài thơ.
(Ký sự du lịch Trung Quốc của Trịnh Hảo Tâm, trang 348).
Về cách đọc bài thơ phong kiều dạ bạc
Thơ thì có nhiều cách đọc và nhiều cách dịch, tuy nhiên trước khi đi vào nội dung bài thơ nổi danh của thi hào Trương Kế chúng tôi xin đi ra ngoài lề một chút. Chữ Hán thường không phân biệt danh từ chung và danh từ riêng và cũng không viết Hoa, Hàn San được hiểu là sư Hàn San cũng được mà nghĩ là chùa trên núi lạnh cũng được. Ngoài ra tiếng phổ thông (toàn quốc) và tiếng địa phương, âm đọc đôi khi giống nhau, nhưng nghĩa lại có khi khác nhau.
Ví d:
Khi Vương An Thạch (lúc chưa làm tể tướng) đi chấm thi (thi Hương) ở Hàng Châu, ông gặp một bài phú rất hay, nhưng trong bài phú này có hai câu làm ông không khó nghĩ:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
Dịch nghĩa: Trăng sáng gáy đầu núi / Chó vàng nằm trong lòng hoa.
Ông lấy bút ghi lại hai câu thơ này và sửa lại ra ngoài tờ giấy của ông như sau:
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm.
Dịch nghĩa: Trăng sáng chiếu đầu núi / Chó vàng nằm dưới bóng hoa.
Sửa xong, Vương An Thạch thấy câu thơ tầm thường nên đánh rớt người khóa sinh làm bài đó. Sau vài năm thì ông mới hiểu ra rằng, theo người Hàng Châu thì Minh Nguyệt là tên một loài chim và Hoàng Khuyển là một loại sâu nhỏ (thường nằm cuộn tròn trong lòng bông hoa).
Trở lại bài thơ Phong Kiều DBạc của Trương Kế, chúng tôi không bàn chi cho dài dòng, chỉ tóm tắt một bài biên khảo đăng trong tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, hình như ấn hành vào thập niên 90. Bài viết này tường thuật một giáo sư học giả người Nhật sang tận nơi (chùa Hàn San ở Tô Châu) để tìm hiểu bài thơ đó và hỏi rất kỹ về cách đọc làm sao cho đúng, thì được nhà sư trụ trì giải thích như sau:
Nguyên tác bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.
Tháp Phổ Minh ở chùa Hàn San. Ảnh: Mai Lĩnh
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Bài thơ này đọc theo âm Quan Thoại
Yùe lóa ù thỉ xuân mãn thện
Chiên phong ýu fò túi sầu mển
Củ tô sấn oải Hàn San xứ
Dé bán chung sâng táo khớ soàn.
Gii thích:
Câu 1: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên.
Ngắt câu như sau: nguyệt, lạc Ô Đề, sương mãn thiên.
Nghĩa:
trăng lặn về thôn Ô Đề, sương đầy trời.
Câu 2: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Nghĩa:
cây cầu, lửa chài đối diện với ngọn núi Sầu Miên (Su Miên Sơn).
câu thứ 3 và câu thứ 4 hiểu theo như cũ.
Cũng theo ý của sư trụ trì, bài thơ bt hủ của thi hào Trương Kế chỉ là bài thơ tả cảnh sông nước. Trước mặt chùa Hàn San là núi Sầu Miên và bên cạnh chùa là cây cầu Phong Kiều, bên kia con lạch là thôn Ô Đề. Chỉ có vậy!
(tài liệu tham khảo thêm Trung Quốc ký sự tập 4, cuốn 1, bộ 3 cuốn)
Phụ lục
Hàn San thi uyển
Những bài thơ này được trích từ web [Chim Việt Cành Nam] do nữ sĩ Quỳnh Chi phỏng dịch một số bài thơ của cao tăng Hàn San.
Theo sách Nhật thì như sau: Cao tăng Hàn San tu ở núi Thiên Đài, những bài thơ này trích trong Hàn San Thập Đắc của soạn giả Kusomoto Bunyu (người Nhật) của nhà xuất bản Kodunsha xuất bản năm 1995 (Hàn San thi uyển).
Nhân vấn hàn san đạo

Nhân vấn Hàn San đạo
Hàn San lộ bất thông
Hạ thiên băng vị thích
Nhất xuất vụ mông mông
Tự ngã hà đo giới
Dữ ngã tâm bất đồng
Quân tâm nhược tự ngã
Hoàn đắc đáo kỳ trung.

Người hỏi đường tới hàn san

Hỏi thăm đường đến Hàn San
Làm chi có lối mà mong hỏi tìm
Giữa hè băng tuyết chẳng tan
Mặt trời lên vẫn tỏa sương mịt mù
Đừng toan theo gót chân ta
Lòng người khác với lòng ta chẳng cùng
Ngày nao đến được hàn san
Là khi người đã một lòng cùng ta.

Quỳnh Chi phỏng dịch (Chim Việt số 28 ra ngày 01/9/2007)

Một khu phố cổ ở Tô Châu. Ảnh: Mai Lĩnh
Kỳ tam thập nhị

Đăng trắc Hàn San đạo
Hàn San đạo bất cùng
Khê trường thạch lỗi lỗi
Giản khoát thảo mông mông
Đài hoạt phi quan vũ
Tùng minh bất giả phong
Thủy năng diêu thế lụy
Cộng tỏa bạch vân trung.

Bài thứ ba mươi hai

Trèo lên đường núi lạnh căm
Đèo cao đường núi cây quanh chẳng cùng
Đá chừng róc rch suối tuôn
Cỏ lan dưới lũng sương lam mịt mờ
Rêu trơn chẳng phải vì mưa
Dù cho gió lặng thông già vẫn reo
Lụy trần ai chẳng mang theo
Trong mây tìm đến vui vầy cùng ta.
Quỳnh Chi phỏng dịch. (Chim Việt số 29 ra ngày 02/12/2007)

Kỳ tam thập ngũ

Yểu yểu hàn san đạo
Lạc lạc lãnh giải tân
Thu thu thường hữu điểu
Tịch tịch canh vô nhân
Tích tích phong xuy điện
Phân phân tuyết tích thân
Triều triều bất kiến nhật
Tuế tuế bất tri xuân.

Bài thứ ba mươi lăm

Đường lên núi lạnh mịt mờ
Cheo leo ghềnh đá bên bờ suối tuôn
Tiếng chim rừng vẳng xa xăm
Tịch liêu cảnh vắng đường không bóng người
Gió lùa rát mặt khô môi
Tuyết rơi la tả trên vai đong đầy
Sáng ra chẳng thấy mặt trời
Xuân về đâu để tháng ngày dần qua.
Qunh Chi phỏng dịch (Chim Việt số 29 ra ngày 02/12/2007)

Sau khi rời khỏi Tô Châu (Cô Tô) cao tăng Hàn San về tu ở núi Thiên Thai (Đài) thuộc tỉnh Chiết Giang. Thiền sư có làm nhiều bài thơ trong Hàn San Thập Đắc thi uyển và đó chính là mấu chốt dễ khiến người đọc và người dịch thơ Đường mắc phải nhầm lẫn.
Ngôi chùa được mang tên Hàn San [tự] tọa lạc tại thành Cô Tô cũ (Tô Châu) là một vùng đất bằng phẳng, có sông rạch, có cầu và có núi (Sầu Miên), có thôn Ô Đề nhưng những bài thơ trong Hàn San thi uyển thì thiền sư Hàn San hay nhắc tới (Nhân vấn Hàn San đạo) hoặc Đắng trắc Hàn San đạo, hoặc Yểu yểu Hàn San đạo, có nghĩa là nơi này toàn là đường núi tuyết lạnh căm không có dấu chân người, mặt trời lên mà sương núi vẫn mờ mịt.
Đọc thoáng qua hoặc chỉ căn cứ vào một vài bài thơ lẻ của thiền sư Hàn San đ chuyển dịch ra tiếng Việt thì thường hay b lẫn lộn giữa chùa Hàn San [ở Cô Tô] và thiền sư Hàn San ở núi Thiên Thaiài) nên nhân vn hàn san đạo chúng tôi chuyển dịch thành hỏi thăm đường tới nơi cư ngụ của thiền sư Hàn san.
chuvươngmiện
_____________________________________________________

Đọc tiếp:

Kỳ 5: Hàng Sang Tự.